NSUT Kiều Khắc Dư
Chủ tịch
Hội VHNT tỉnh Nam Định
Âm nhạc giao hưởng nói riêng, nhạc không lời nói chung, có thể coi là quốc nhạc là nền tảng âm nhạc, là tài sản kiêu hãnh của một quốc gia. Nhưng ở Việt
Nam đất nước của bốn mùa xanh tươi cây lá, nơi chắp cánh cho mĩ cảm thăng hoa thì tài sản âm nhạc quan trọng nhất nổi bật nhất
của cha ông để lại là các làn điệu dân
ca. Những câu ca có cánh cò bay lả, có
dòng sông bên lở bên bồi đã làm cho hình
tượng âm nhạc cất cánh. Nhạc có lời chính là thành tựu của các thế hệ nối tiếp
sang nền tân nhạc (nhạc có thể ghi chép thành
nốt) cũng chính là CA KHÚC, nhạc có lời chứ không phải nhạc không lời.
Trong hàng ngũ những nhạc sĩ tiên
phong của nền tân nhạc Việt Nam, nhạc sĩ Văn
Cao chỉ với kho tàng sáng tác ca khúc rất khiêm tốn: khoảng trên dưới ba
mươi bài (Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có hơn 600 bài; nhạc sĩ Phạm Duy hơn một ngàn bài), song vẫn là một dòng sông âm nhạc mênh mông luôn chảy xiết trong lòng người yêu âm nhạc, yêu nghệ thuật nói riêng,
trong lòng mỗi người dân Việt Nam nói chung. Văn Cao bừng sáng như một niềm
kiêu hãnh vĩ đại mà không
một nhạc sĩ nào của Việt
Nam có được. Điều đó đã được khẳng
định bởi với bài “Tiến quân ca” được Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa chọn làm Quốc ca từ năm 1946 đến nay vẫn không thể nào thay thế,
thì hơn 90 triệu người Việt Nam đang sống, và cả mấy chục triệu người Việt Nam
đã từng sống trên dải dất hình chữ S này rồi qua đời từ đó đến nay, hỏi ai mà
không từng nghe, từng hát Quốc ca cơ chứ? Quốc ca mang hồn thiêng sông núi mang
niềm kiêu hãnh của cả dân tộc. Văn Cao không chỉ là nhạc sĩ, mà còn là thi sĩ, họa sĩ, chiến sĩ ngay trong những ngày đầu cách
mạng đầy gian khổ hiểm nguy.
Bốn tài hoa thiên phú hòa hợp trong một con người xuất
chúng. Phải chăng vì thế mà các bài hát của ông vừa đa dạng, đa thanh, lại đa
sắc, đa tình. Lai láng hồn thơ, lung linh sắc màu, oai hùng, hào sảng. Cũng phải chăng vì thế mà chỉ với gia tài trên dưới
30 bài hát, ông đã đạt tới tuyệt đỉnh vinh quang mà chưa một nhạc sĩ Việt Nam nào đạt tới: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ
thuật đợt I (1996), Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí Minh. Tên
ông đã được đặt cho tên đường, tên phố tại Thủ đô Hà Nội, Thành phố Hồ Chí
Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ và nhiều địa phương khác, trong đó có thành
phố Nam Định của chúng ta thủ phủ đất
Thiên Trường. Quê hương ông bà Tổ tông
nơi sinh ra một tinh hoa xuất chúng- nhạc sỹ Văn Cao.
Với một gia tài
âm nhạc khiêm tốn về số lượng như thế
mà đạt tới tuyệt đỉnh vinh quang như vậy, chắc chắn gia tài đó hàm chứa rất
nhiều dung lượng hữu hình và vô hình, tựa như kho tàng nhỏ nhưng ẩn
chứa nhiều viên ngọc quý giá, nhiều giá trị tinh
thần lớn lao, để những nhà nghiên cứu
âm nhạc đã, đang và sẽ đi sâu tìm hiểu, phát
hiện ngày càng nhiều giá trị trong các
bài hát của người nhạc sĩ được “trời cho” ấy (ý của nhà nghiên cứu âm nhạc -
nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha). Với khuôn khổ một
bài viết ngắn nhân sắp đến kỷ niệm 100 năm ngày sinh của nhạc sĩ Văn Cao
(15/11/1923 - 15/11-2023), tôi xin góp một tiếng nói, một ý nhỏ trong khi tìm hiểu
kho tàng ca khúc của ông.
Rất
nhiều nhạc sĩ, nhà nghiên cứu âm nhạc nổi tiếng đánh giá các tác phẩm Văn Cao viết trong thời kỳ 1939 - 1942
(khi ông tuổi 16 đến 19), mang tính khai phá trong Tân nhạc Việt Nam. Đó là “Buồn tàn thu” (1939), “Thiên Thai (1941); “Cung
đàn xưa”, “Thu cô liêu”, “Đàn chim Việt”
(1942); “Trương Chi” (1943); rồi còn “Suối mơ”, “Bến xuân”... Những ca khúc mà bây giờ khán giả yêu nhạc Việt
Nam có thể bắt gặp thường xuyên được trình diễn với các danh ca có hạng trên
các sân khấu lớn nhỏ trong và ngoài nước; có thể tìm thấy dễ dàng bản tiếng
(file audio), bản hình (file video) trên internet trong các website
chuyên về âm nhạc thịnh
hành như zing.mp3, baicadicungnamthang. vn, nhaccuatui.com, hoặc những website
tổng hợp nổi tiếng như Youtube,
Tiktok... Song đã có một thời gian dài trước thập kỷ 80 thế kỷ XX, những nhạc
phẩm đó được coi là dòng “nhạc vàng”, nhà nước
ta cấm lưu hành. Đó là do hoàn cảnh lịch sử, chứ không phải ý muốn chủ
quan của bất kỳ ai. Bởi trước khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước,
chính quyền cách mạng của ta phải đương đầu với
hai thế lực xâm lược hùng mạnh nhất thế giới: Thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Để
tập hợp được ý chí của toàn dân, quyết tâm giành tự do cho dân tộc, giành độc
lập, thống nhất cho non sông đất nước Việt Nam, văn học nghệ thuật, trong đó có âm nhạc nhằm mục tiêu cao nhất là động
viên tinh thần yêu nước, xả thân vì nước, chiến đấu chống lại kẻ thù. Vì thế
mới có những vần thơ phê phán sâu xa và định hướng rõ ràng cho văn nghệ, mang
chất động viên chiến đấu hừng hực chí anh hào như thế này:
Nếu thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây
Để tâm hồn treo ngược
trên cành cây
Hay lả lướt đìu hiu cũng ngọn liễu
Nếu thi sĩ nghĩa là nhăn với mếu
Nghĩa là van Thượng đế
rủ lòng thương
Hồn bơ vơ lạc lõng ở muôn phương
Khóc rả rích như ve sầu tháng hạ.
Nếu thi sĩ vùi đầu mài miệt tả
Cặp tuyết lê hồi hộp trước tình yêu
Cho cuộc đời là ảo mộng cao siêu
Chìm đắm ở thương hoa và tiếc ngọc.
...
Không, không được,
hỡi
các nhà văn nghệ
Các nhà thơ yêu dấu của đồng bào
Các nhà thơ trong sạch với thanh cao
Hoa thơm ngát trong vườn xuân đất Việt.
...
Cao giọng hát với bài ca chính khí
Của anh hùng vì nước đã quên mình
Của Đình Phùng, Đề Thám với Châu Trinh
Của Bãi Sậy, Thái Nguyên và Yên Bái.
Là
thi sĩ nghĩa là theo gió mới
Tìm ý thơ trên ngọn sóng Bạch Đằng
Để tâm hồn dào dạt ải Chi Lăng
Làm bất tử trận Đống Đa oanh liệt.
...
(Trích bài thơ “Là
thi sĩ” của Sóng Hồng)
Hay gọn gàng, cụ thể và vắn tắt hơn
là thế này:
Thơ xưa yêu cảnh thiên
nhiên đẹp
Mây gió trăng hoa tuyết núi sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong!
(Trích “Nhật ký trong tù” của Chủ
tịch Hồ Chí Minh)
Vì
thế các vần thơ, câu ca không “có thép” dĩ nhiên là không phù hợp với bối cảnh của quãng
thời gian mà “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”, thanh niên “Ba sẵn sàng”,
phụ nữ “Ba đảm đang”,
lớp lớp thanh niên cầm súng lên đường
ra mặt trận với lời hát trên môi “Đời chưa hết giặc là ta chưa về” (Bài hát của Huy Du). Để phân biệt
dòng nhạc của những bài ca “có thép”
với những bài ca không nằm trong số đó, đa số ra đời trước cách mạng tháng Tám 1945, người ta đặt tên là dòng “nhạc vàng”, không phải là vàng bạc quý giá, mà hàm ý là vàng vọt, yếm thế, như lá vàng trên cây,
dễ làm tiêu tan ý chí chiến đấu, gây bất lợi cho công cuộc cách mạng. Sau khi thống
nhất đất nước, vượt qua giai đoạn cực kỳ gian khổ khó khăn do các thế lực trong
nước chống phá, ngoài nước đánh lén, cấm
vận vây ép, sang giai đoạn đổi mới, kinh tế ngày càng nâng cao, quan hệ ngoại giao ngày càng cởi mở, kéo theo văn hóa
văn nghệ phát triển đa dạng muôn màu. Rất nhiều bài hát mới, trào lưu âm nhạc
mới ra đời, mà trong đó nhiều tác
phẩm không “có thép”, chỉ nói về tình yêu quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi,
niềm tin yêu cuộc sống, những niềm vui và cả những nỗi buồn tích cực vẫn được người nghe tán
thưởng. Do đó, khái niệm “nhạc vàng” dần
dần hầu như đã tự biến mất. Người hát, người nghe lại say mê với bức tranh được
vẽ lên đầy huyền ảo qua giai điệu và lời ca của “Thiên Thai”: “Tiếng ai hát chiều nay vang lừng trên sóng/ Nhớ Lưu
Nguyễn ngày xưa lạc tới Đào Nguyên... Nao nao bầu sương khói phủ quanh trời/
Lênh đênh dưới hoa chiếc thuyền
nan...”. Và đầy lãng
mạn thanh bình của “Suối mơ”: “...Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối/ Nghe suối
róc rách trôi,
hoa lừng hương
gió ngát/ Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi/ Tơ đàn chùng theo với
tháng năm/ Rừng còn nhớ tới người...”...
Không biết ai
nghĩ thế nào, chứ tôi thì thấy nghe
những giai điệu với những lời ca huyền ảo mộng mơ đến mức dường như thoát tục
ấy, những “Suối mơ”, “Thiên Thai”, “Cung đàn xưa”, “Đàn chim Việt”, và cả “Bến
xuân”, “Thu cô liêu”, “Trương Chi” với “Buồn tàn thu”, nó có nỗi lòng riêng tư,
nhiều khi gợi lên nỗi nhớ, nỗi buồn man mác thoảng qua, nhưng cũng làm tâm hồn ta trẻ lại, tuổi
ta xanh lại một thời thanh xuân tươi đẹp với bao ước vọng, mộng mơ. Đó thực sự
là những bản tình ca. Phải chăng lúc này ta nên gọi những bài ca của Văn Cao
thời kỳ 1936 - 1942, những bản TÌNH CA ấy là dòng “nhạc xanh” mới đúng tính
chất, mới hợp với hồn cốt của nó?
Văn Cao không chỉ là người góp phần khai phá Tân nhạc Việt Nam với hàng
chục bản TÌNH CA thuộc dòng NHẠC XANH nói trên, mà còn là nhạc sĩ tiêu biểu của
dòng nhạc kháng chiến cách mạng Việt Nam, với những bản HÙNG CA, được bắt đầu bằng bài hát “Tiến quân
ca” bất hủ. Chuyện kể rằng năm 1944 khi cách mạng Việt Nam do Đảng ta lãnh đạo còn đang gặp vô vàn khó khăn,
một cán bộ Việt Minh tên là Vũ Quý đã gặp gỡ thuyết phục Văn Cao gia nhập hàng
ngũ Việt Minh, với nhiệm vụ đầu tiên là sáng tác một hành khúc cổ vũ, ca ngợi
đoàn quân cách mạng.
“Tiến quân ca” đã ra đời
theo kiểu “đơn đặt hàng”
như thế, được in
trên báo Độc lập tháng 11/1944, rồi ngày 17/8/1945 nó được vang lên lần đầu
tiên tại Quảng trường Nhà hát Lớn Hà Nội (nay
là quảng trường
Cách mạng Tháng Tám), và năm 1946 đã chính thức trở
thành Quốc ca Việt Nam dưới thời đại Hồ Chí
Minh. Sau “Tiến quân ca”, với tinh thần
yêu nước nồng nàn, tài năng sáng tạo vô song, Văn Cao tiếp tục cho ra
đời các nhạc phẩm để đời “Bắc Sơn”, “Chiến sĩ
Việt Nam”, “Không quân Việt Nam”,
“Bài ca chiến sĩ hải quân” (1945); “Làng tôi”
(1947); “Ngày mùa” (1948); “Tiến về
Hà Nội” (1949); “Ca ngợi Hồ Chủ Tịch” (1950)... đặc biệt là sự ra đời của nhạc
phẩm huyền thoại mê hoặc lòng người, trường ca “Sông Lô” (1947). Bản
trường ca này đã mở đầu cho những
trường ca cách mạng đầy chất
bác học về âm nhạc nối tiếp theo sau như “Du kích sông Thao” của nhạc sĩ Đỗ Nhuận; “Người Hà
Nội” của nhà thơ - nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi... Cách mạng Việt Nam đã là nguồn hứng
khởi để hàng trăm nhạc sĩ viết nên hàng ngàn bản HÙNG CA rạo rực thôi thúc lòng
người, song nổi bật nhất, tiêu biểu nhất, chắc chắn là “Tiến quân ca” trong thể loại
ca khúc, “Sông Lô” trong thể loại trường ca. Cả hai tuyệt phẩm ấy đều do một
nhạc sĩ sinh ra ở thành phố cảng Hải Phòng, nhưng quê hương, ông bà, nơi xuất
xứ tài năng là thôn An Lễ, xã Liên Minh, huyện Vụ
Bản, tỉnh Nam Định: nhạc sĩ Văn Cao.
Nếu có thể hình tượng hóa những nhạc phẩm của Văn Cao là một dòng sông âm nhạc,
thì những bản TÌNH CA tuyệt vời của ông là dòng nước êm đềm màu XANH, những bản HÙNG CA đỉnh cao của ông là
dòng nước sục sôi màu ĐỎ. Dòng nước
XANH tắm mát tâm hồn ta. Dòng nước
ĐỎ cổ vũ ý chí ta. Hai dòng nước ấy cùng chảy trong một dòng sông thiên tài:
dòng sông âm nhạc Văn Cao. Chúng ta yêu quí và tự hào vì có một Văn Cao.q