NGUYỄN CÔNG THÀNH
Đóng góp và tầm vóc của một nhà
nghiên cứu khoa học thể hiện chủ yếu qua sản phẩm công trình nghiên cứu cụ
thể, nơi kết tinh tư tưởng - mục tiêu nghiên
cứu (có thể coi là tầm), nhiệt tình tâm huyết
và sự đam mê chiếm lĩnh đối tượng
nghiên cứu qua tài liệu và thực tế cuộc sống (tâm), năng lực làm chủ đối tượng
nghiên cứu, thể hiện các sản phẩm nghiên
cứu bằng văn bản viết kèm theo
những chứng cớ khoa học hấp dẫn giàu sức thuyết phục có
tác dụng lan tỏa (tài). Tôi nhận thấy thành tựu nghiên cứu
khoa học của nhà giáo - nhà nghiên
cứu Bùi Văn Tam có đủ ba yếu tố ấy.
Nghề dạy học và bộ môn Lịch sử là nơi khởi phát niềm đam mê sưu tầm nghiên cứu lịch
sử văn hóa nghệ thuật của ông.
Tác giả Bùi Văn Tam thuộc thếhệ những
người được học hành bài bản nghiêm
cẩn, sớm giao tiếp với những nhà
giáo - nhà khoa học tài hoa và tâm huyết trong
giới nghiên cứu khoa học xã hội nhân
văn. Được học và tốt nghiệp Khoa Sử Đại học Tổng hợp Hà Nội khóa 1956 - 1960,
ông tiếp thu từ những người thầy nổi tiếng (như Giáo sư
Trần Đức Thảo, Giáo sư Trần Văn Giàu, Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường...) và những người bạn học tài
hoa (tiêu biểu là nhà sử học Lê Văn Lan),
những trí thức uyên bác với lòng yêu nước
tâm thành, tận tụy với nghề nghiệp,
có bản lĩnh khoa học, luôn hướng đến phương
pháp nghiên cứu khoa học xã hội
nhân văn đúng đắn sáng tạo, gắn với thực
tiễn cuộc sống... Câu nói nằm lòng luôn nhắc nhở, day dứt suốt đời ông chính là
lời căn dặn của Giáo sư Trần Văn Giàu Làm việc
gì cũng được, nhưng “hãy tìm chỗ đứng
dưới ánh mặt trời”, đây là câu nói của người Nhật. Mỗi con người tùy hoàn
cảnh cùng với “sở trường, sở đoản” phải
tìm bằng được cho mình “chỗ đứng
dưới ánh mặt trời” quang minh chính đại, để có suy nghĩ đúng, hành động đúng, vượt qua mọi thử thách gian khó, những biến thiên của cuộc sống xã hội, đạt được mục đích
sống và làm việc của mình.
Tâm niệm
ấy đã thay đổi phương thức
tìm tòi nghiên cứu sáng tạo của nhà giáo sử học Bùi Văn
Tam. Nếu như thời trai trẻ ông đã từng hăm hở viết báo, dịch thuật
những truyện ngắn Trung Quốc để đăng báo (đã được Nhà xuất bản phổ thông xuất
bản 2 tập truyện dịch), thì sau
khi tốt nghiệp đại học, chính thức trở
thành giáo viên giảng dạy lịch sử, ông đã hình thành tác phong sưu tầm nghiên cứu biên soạn các tư liệu lịch sử địa phương để
trước hết làm tài liệu phục vụ giảng dạy, với ý thức muốn dạy
lịch sử giỏi phải là người có phương pháp nghiên cứu lịch sử thật
tốt. Càng đi vào thực tế sưu tầm tư liệu văn hóa dân gian, đền
từ, miếu mạo, các thư tịch cổ, nhà giáo sử học Bùi Văn Tam càng bị lôi cuốn vào những
vấn đề đặt ra trong
thực tế. Kể từ năm học 1965 - 1966 khi ông được trở về giảng dạy công tác tại quê hương Nam Định (lúc đó là Ty Giáo dục
Nam Hà), như “cá về với nước”,
đồng hành với nhiệm vụ giảng dạy lịch
sử ở trường Sư phạm của
tỉnh rồi trường cấp III Vụ Bản quê ông, tham
gia công tác quản lý chỉ đạo môn lịch sử của Ty Giáo
dục..., ông bắt đầu sự nghiệp tìm
cho mình một “chỗ đứng dưới ánh
mặt trời”. Thành quả nghiên cứu ban đầu của
ông là hệ thống tư liệu để viết những mẩu
chuyện lịch sử tỉnh Nam Hà, những chuyện cũ viết
lại về đời Trần... Ông đã kết
hợp việc bồi dưỡng năng lực điền dã cho học sinh học môn lịch sử, với
việc làm phong phú thêm nguồn tư liệu điều
tra khảo sát thực tế của mình. Trong điều kiện của một nhà giáo địa phương làm công tác
nghiên cứu khoa học, ông gặp không ít khó khăn khi xử lý các mảng tư liệu, hay
còn gọi là phương pháp nghiên cứu khoa học lịch sử xã hội nhân văn.
Ông khao khát mở rộng tầm nhìn
về phương pháp nghiên cứu qua những
lần được tập huấn, những dịp hiếm hoi được
trao đổi với các bậc đàn anh về
khoa học
lịch sử. Ông lựa chọn những đề tài đã được nghiên cứu nhưng còn bỏ ngỏ nhiều vấn đề chưa ngã
ngũ hoặc chưa được lý giải xác thực thỏa đáng, như đề tài “Thiên
Bản lục kỳ”, “Trạng nguyên Lương Thế Vinh”, “Thánh Mẫu Liễu Hạnh”..., để làm cơ sở đi sâu khai thác tài
liệu thực tế thỏa niềm đam mê của chính mình và sức hấp dẫn cùng đồng nghiệp. Qua
những trao đổi mang tính học thuật, ông rất
thấm thía muốn có sản phẩm nghiên cứu khoa học giàu sức thuyết
phục, phải đẩy mạnh nghiên cứu đa ngành. Để sản phẩm nghiên cứu có sức lan tỏa lâu bền, phải
kết hợp nghiên cứu chuyên sâu
mang tính hàn lâm kinh viện với
phương pháp điền dã, biết vận dụng
sản phẩm nghiên cứu gắn với tuyên truyền mang tính phổ cập
thời sự. Ông chọn hướng nghiên cứu khoa học gắn với thực tiễn, địa phương, để
giải tỏa nguồn tư liệu điền dã đã có, viết
lịch sử địa phương các xã và huyện Vụ Bản,
hướng tới viết địa chí văn hóa các xã và địa chí văn hóa huyện Vụ Bản
đồng thời với nghiên cứu các chuyên đề chuyên
sâu. Quả nhiên những cuốn lịch sử địa phương này đã phát huy
tác dụng trong cộng đồng, “tạo vốn” để có những
nghiên cứu sáng tác sâu rộng hơn. Ông nhận ra phương
pháp điền dã, phân tích tổng
hợp và phương pháp so sánh lịch sử
đồng đại và lịch đại hết sức quan trọng. Có lần năm 1968, sau khi hoàn thành 100 trang viết về lịch sử huyện Vụ Bản, ông mạnh dạn đến gặp giáo sư sử học nổi tiếng Trần Huy Liệu để xin góp ý (dịp ấy giáo sư
Trần Huy Liệu về công tác ở quê
nhà, huyện Vụ Bản). Thật may mắn, ông đã được giáo sư Trần Huy Liệu nhận
xem và trực tiếp cho ý kiến cụ
thể (28 ý) vào bản thảo, trong đó giáo sư nhấn mạnh viết
sử phải chú ý tính chân xác của lịch sử. Viết lịch sử
đất Vụ Bản phải tìm hiểu kỹ, đặt trong mối quan hệ với văn
hóa nguồn
cội Thiên Bản lục kỳ, không thể
bỏ qua Mẫu Liễu Phủ Dầy, các di
tích văn hóa, lễ hội, văn chương truyền miệng và văn tự thành văn...
Tìm được
hướng đi đúng, ông xác định
mình dù không có thuận lợi về điều kiện nghiên cứu như những bạn
bè cùng khóa, người được giữ lại làm
cán bộ giảng dạy, người được về viện Sử học..., nhưng mình có lợi thế điền dã
khảo sát
nghiên cứu từ thực tiễn của vùng quê ăm ắp dữ liệu của một Thiên Bản địa linh nhân kiệt. Ông
quyết tâm tìm và khẳng định “chỗ đứng” của một nhà giáo nghiên cứu lịch sử văn hóa trên chính mảnh đất quê nhà.
Không để mình bị choáng ngợp
trước những bề bộn tài liệu có sẵn và tài liệu sưu tầm được, ông luôn
ý thức kế thừa và phát huy những
gì đã có. Lịch sử quá khứ ở đất
Thiên Bản còn nhiều vấn đề mới “xới xáo” sơ lược, mình phải cónhiệm vụ “tiếp
sức” trong nghiên cứu, để rồi mỗi thế hệ lại có sự tiếp nối tiếp
cận đến bản chất sự việc hiện tượng lịch sử xã hội. Ông tập hợp phân loại tư liệu, đối chiếu
so sánh để thấy sự nhất quán tương
đồng cũng như sự mâu thuẫn dị biệt
giữa các hiện tượng sự
kiện.
Từ đó những gì cần kế thừa bổ khuyết, những gì
cần đào sâu đi tiếp theo hướng mở, không để nghiên cứu bị vào ngõ cụt, hoặc bao biện khiên cưỡng. Tính nhân văn của việc
tiếp thu, đánh giá, bổ sung tài liệu là để vấn đề sáng
tỏ hơn nhằm tôn vinh những di sản mà mình nghiên cứu. Ông
chọn nghiên cứu ngay những vấn đề tưởng như đã an bài: “Thiên Bản lục kỳ” - sáu sự kỳ lạ trên đất
Thiên Bản. Thiên Bản là tên địa danh thì
rõ rồi, nhưng lục kỳ là sáu sự kỳ lạ của cảnh vật hay của con người? Nếu sự kỳ lạ của con người thì hoàn
cảnh cụ thể? Gồm những ai?... Khi điền dã, có
rất nhiều ý kiến của các bậc cao niên kể về sáu con người cụ thể, nhưng lại không
giống nhau, chưa ngã ngũ. Trong
sáu nhân vật lạ kỳ (lục kỳ), đa số ý kiến thống nhất ở bốn nhân vật: Thần Tam Ranh, Thần Cường Bạo, Thánh
Mẫu Liễu Hạnh, Bà chúa Thông Khê Trần Thị Ngọc Đài. Còn hai trong “lục kỳ” thì có tới bốn vị được
nêu lên: Lã Gia, Trạng Lường Lương
Thế Vinh, Đề Sát, Điền Quận công. Ông
cũng đã có trong tay tài liệu “Tiên phả dịch
lục” năm 1913 của cụ phó bảng Kiều
Oánh Mậu và sách viết về Phủ Dầy năm 1995 của hai nhà nghiên cứu
Bùi Hạnh Cẩn và Lê Trân bàn về “Thiên Bản
lục kỳ”. Vấn đề được đặt ra, đã là “Thiên Bản lục kỳ”
thì người được vinh danh đặc biệt
ấy phải đảm bảo hai tiêu chí căn bản: Người trên đất Thiên Bản
vàphải thật sự có sự lạ kỳ. Sau khi tiếp xúc với văn tự hiện có và những
phân tích cụ thể giữa Lã Gia và Trạng Lường, sự lô gíc của tài
liệu và thực tế cho phép ông lựa chọn
Trạng Lường. Vì Trạng Lường thuộc Thiên Bản, cuộc đời và sự nghiệp của quan Trạng gồm rất nhiều sự lạ kỳ được lưu
truyền trong dân gian và sử
sách (nhà Đại thành toán pháp, nhà ngoại giao kỳ tài, nhà giáo, nhà thơ,
nhà soạn lễ nhạc cung
đình,...) Trong khi đó, nhân vật
Lã Gia có ý kiến cho ông là một người thời Triệu Đà, chưa rõ lai lịch công trạng.
Lại có ý kiến cho rằng nhân vật Lã Gia là người Châu Ái (Thanh Hóa) có tinh thần chống xâm lược nhà Hán, với tinh thần quả
cảm hy sinh vì đại nghĩa, chết trên đất Thiên
Bản chứ không phải người của Thiên Bản, không có giai thoại hoặc sử sách nào ghi lại sự tích “lạ kỳ” của danh nhân này. Sau gần 10 năm nghiên cứu thận trọng công trình “Thiên Bản lục
kỳ - Huyền thoại đất Sơn Nam”
của ông năm 1997 mới chính thức được nhà
xuất bản Văn hóa Dân tộc cho xuất bản (năm 2019
đã tái bản). Ông tâm sự: “Thật ra,
huyền thoại về Thiên Bản lục kỳ chưa ai viết rõ
hành trang sự nghiệp của từng vị. Nay tôi là người
đầu tiên sưu tập tư liệu
dựng nên những huyền thoại này phù hợp với tâm tư nguyện vọng của người dân Thiên
Bản, tôn vinh được những bậc kỳ
tài không chỉ mang tính thần kỳ mà còn
là những bậc có nhiều mưu trí sáng tạo để giúp dân, giúp nước. Huyền thoại này là văn
học dân gian, khoa học mở, tôi
viết xong rồi, nay đang tiếp tục nhận thêm nhiều giai thoại nữa về các vị thần, huống hồ sau này lại có người kế
tiếp viết lại, mở rộng thêm, lại càng phong
phúVới quan niệm nghiên cứu mở, mang tinh thần nhân văn ấy, ông đã hoàn thành nhiều công trình nghiên cứu các đề tài mà trước ông đã có nhiều nhà nghiên
cứu đã viết, nhưng đóng góp của ông không
chỉ là kế thừa mà còn có cứ liệu và
kiến giải mới mang dấu ấn riêng tác
giả Bùi Văn Tam. Trong số đó phải kể đến công trình nghiên cứu về “Trạng nguyên Lương Thế Vinh” của ông được 4 Nhà xuất bản in và phát hành với khối lượng lớn (Hội
Văn học Nghệ thuật Nam Định XB
năm 1990; NXB Văn hóa Dân tộc XB năm 1996; NXB Đồng Nai tái bản năm 1997; NXB Thanh Hóa tái bản năm 2000).
Tác phẩm “Giai thoại Trạng
Lường” của ông được NXB Văn hóa Dân tộc XB năm 1999 (tái bản
2001). Công trình nghiên cứu về
Phủ Dầy được ông viết thành hai đầu sách: “Phủ Dầy và tín ngưỡng
Mẫu Liễu Hạnh” NXB Văn hóa Dân tộc XB năm 1996 (tái bản tới 4 lần); “Phủ Dầy và các nữ thần Vụ Bản trong tín ngưỡng Mẫu
Liễu Hạnh” NXB Hồng Đức XB năm 2020. Ví như việc sưu tầm nghiên
cứu về danh nhân nổi tiếng Trạng nguyên Lương Thế Vinh, tưởng như
đã an bài với những giai thoại lưu truyền trong dân gian.
Nhưng khi đi vào những sự việc cụ thể xác thực để khẳng định tài ba lỗi lạc đa diện, bản lĩnh
cao khiết, phẩm chất sáng ngời cùng những cống hiến
cho dân cho nước của vị Quan Trạng đặc biệt trong năm vị Trạng nguyên thời phong
kiến của tỉnh Nam Định (Nguyễn
Hiền, Lương Thế Vinh, Đào Sư Tích, Vũ Tuấn Chiêu, Trần Văn Bảo) thì quả không
đơn giản chút nào. Từ lai lịch dòng
họ Lương qua tháng năm đã lưu lạc nhiều nơi, đến các trước tác của vị Trạng nguyên nức danh này cũng
không còn được lưu giữ nhiều trên đất Vụ Bản. Câu chuyện
ông bà Bùi Văn Tam bằng chiếc
xe đạp cà tàng, từ năm 1973 đã
lặn lội đi khắp các tỉnh có dấu tích lưu lạc của dòng họ Lương
(Nghệ An, Thái Bình,
Hà Nội, Thái Nguyên...) để cố
tìm kiếm những manh mối liên quan đến
cuộc đời
và sáng tác của vị Quan trạng họ Lương, cũng có thể coi
như “một huyền thoại”. Phải chăng có sự
linh ứng nào đó, nhà giáo Bùi
Văn Tam đã gặp may khi ở vào những
hy vọng cuối cùng của cuộc tìm kiếm, ông đã có được tư liệu quý - cuốn sách
“Đăng khoa lục sưu giảng” trong đó
có ghi lại tiểu sử của cụ Trạng Lường và bài luận văn nổi tiếng “Đối đình sách văn”
cùng hai bài phú và hai bài thơ của Cụ... Điều đó góp phần vào lý giải của tác giả Bùi Văn Tam khi viết về Trạng nguyên Lương Thế Vinh.
Tiếp xúc với các công trình nghiên
cứu của ông nhiều người không khỏi ngỡ ngàng
và kính nể công sức, tác phong làm việc sâu sát
bền bỉ, cẩn trọng trong nghiên
cứu, tính chuyên nghiệp và khối lượng sản phẩm
khoa học khá đồ sộ mà ông đem lại. Với một cây bút sưu tầm nghiên
cứu lịch sử văn hóa tự đào luyện, làm việc chủ yếu ở địa phương, nhưng tác giả Bùi Văn Tam đã có một thành quả ngoài sự tưởng
tượng thông thường của mọi người: 2 tác phẩm truyện (dịch); 4 đầu sách
nghiên cứu về Trạng nguyên Lương Thế Vinh; 2 đầu sách nghiên cứu về Phủ Dầy và tín ngưỡng thờ
mẫu Liễu Hạnh; 4 đầu sách nghiên cứu
về: Vụ Bản thời Hùng Vương, Văn hóa Làng
trên đất Thiên Bản, Nguyệt Du Cung đền Cây Đa Bóng, Núi Ngăm và khu du lịch sinh thái;
12 cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện
Vụ Bản và các xã; 5 cuốn Địa chí văn hóa xã. Hầu hết các công trình
nghiên cứu được ông hoàn thành trong giai đoạn ông đã nghỉ hưu
(1992), đặc biệt là công trình nghiên
cứu khoa học “Địa chí Văn hóa huyện Vụ Bản” gồm 772 trang khổ lớn (20,5 x 29 cm) với 21 chương mục, bao quát rộng, từ địa
lý, lịch sử, kinh tế, tín ngưỡng, tôn giáo, phong tục tập quán lễ hội,
giáo dục đào tạo, văn học nghệ thuật,
nhân vật lịch sử văn hóa, các tác giả tác phẩm Hán Nôm tiêu biểu, những nhà khoa cử... Công trình đã được tỉnh Nam
Định cấp kinh phí cho một đề tài khoa học xã hội nhân văn và đã được nghiệm thu.
Có thể nói đây là một công trình thể hiện
toàn diện tâm huyết và tài năng của một
nhà nghiên cứu có thâm niên.
Nếu nói các đầu sách và công
trình nghiên cứu chính là những “lá phiếu”
tin cậy nhất để “bầu”
nên danh hiệu của tác giả, thì
các công trình nghiên cứu và các cuốn
sách của tác giả Bùi Văn Tam chính là những
“lá phiếu” tin cậy ấy. Ông đã
nhận được nhiều phần thưởng cao
quý, từ Huân chương Kháng chiến hạng Nhì,
các Huy chương Kỷ niệm chương, đến nhiều Bằng khen và Giấy khen từ Trung ương đến địa phương, sáu giải thưởng về Văn học Nghệ thuật... Ông
sớm trở thành hội viên của Hội Văn nghệ dân gian VN, Hội Khoa
học Lịch sử VN, Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Nam Định. Ông tìm thấy niềm
vui của sự “tiếp sức” trong công việc
thầm lặng của mình khi được tiếp
xúc với các nhà nghiên cứu lành nghề,
những buổi sinh hoạt chuyên môn với các Hội, những lần làm việc với các nhà xuất bản. Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định là
nơi ông có mặt ngay từ ngày đầu thành lập (1977).
Tuổi hội viên của ông bằng
tuổi của Hội VHNT, năm 2022 đã là 45 năm (1977 - 2022) thành lập Hội. Ông thuộc
thế hệ những hội viên kết nạp
đợt đầu (1977) của Bộ môn Nghiên cứu
Phê bình của Hội VHNT tỉnh Nam Định: Lê Xuân Quang, Nguyễn Văn Huyền, Vũ
Ngọc Lý, Trần Xuân Mậu, Trần Văn Phẩm, Trần Xuân
Hảo, Trần Quát, Minh Tân,
Trần Tường, Đoàn Tùng, Đoàn Ngọc
Phan, Đào Đình Tửu, Đỗ Nguyên Hạnh,
Nguyễn Hữu Kiều...
Mỗi dịp hội
họp và sinh hoạt chuyên môn của bộ môn, là dịp để ông trao gửi tặng
phẩm của mình, khi thì sách mới xuất bản còn thơm mùi mực in, khi thì phô
tô lại bản thảo đang chờ xuất bản hay
một bài báo của ông mới đăng..., kèm theo là
nụ cười hồn hậu cởi mở. Trong một lần sinh hoạt chuyên môn nghe ông tâm sự: “Đã là
hội viên một Hội chính trị
xã hội nghề nghiệp, với chuyên môn sưu
tầm - nghiên cứu - sáng tác
- sáng tạo - ứng dụng sử học, văn học nghệ thuật
vào cuộc sống để phục vụ cuộc
sống thì nhất định phải có công trình, tác phẩm. Tôi
đã cố gắng làm được điều này, hàng năm luôn có bài cho các báo chí, tạp chí của Hội và có sách để in. Nói thật, tôi thấy mình làm chuyên môn thông qua viết
sách có thu nhập ổn định và đã
sống được bằng viết sách...” Người viết bài này, thật sự ngỡ ngàng bởi rất
nhiều người cho rằng vào Hội là
nơi để sinh hoạt chuyên môn nghiên cứu
sáng tác và viết lách “cho vui” chứ
trông chờ gì vào thu nhập qua viết sách. Tưởng ông nói vui, nhưng khi tìm hiểu kỹ tôi thật sự xúc động biết rằng từ khi ông nghỉ hưu 1992 đến nay, đồng lương hưu ít ỏi của nhà giáo với trăm
công ngàn việc phải trang trải, nếu không
có tiền làm sách của ông,
thì việc nhà, việc họ hàng làng nước,
việc xã hội, lại hỗ trợ con cái, còn
thuốc thang lúc ông bà đau yếu. Thậm chí
ông bà còn dành dụm một khoản đáng kể
để làm công đức tri ân với những nơi
ông gắn bó với nghiệp viết, tiêu biểu như ông bà cúng
tiến tấm văn bia bằng đá xanh tại Đền
Cây Đa Bóng (Phủ Dầy xã Kim Thái huyện
Vụ Bản).
Lại nói
chuyện “viết lách”, ông chia sẻ: “Đã
làm sách thì phải nắm vững quan điểm đường lối của Đảng, sự chỉ đạo trong từng lĩnh vực cụ thể mà mình đang viết; phải kết hợp viết sách với làm hồ sơ
vinh danh các danh nhân văn hóa, công nhận các
di tích lịch sử văn hóa, biết dựa vào sự
lãnh đạo của Đảng chính quyền, các ban ngành
đoàn thể của địa phương, sự ủng hộ
giúp đỡ của nhân dân, sự tài trợ của những
nhà hảo tâm, lại phải nắm vững thủ tục hành chính cho việc xuất bản sách... “Viết lách” là phải như vậy. Nhưng tôi không “lách” bằng tiền, bằng quyền lực mà chính bằng chất lượng công trình, tác dụng
hiệu quả xã hội mà công trình đem lại. Phải định hướng hợp lý, kết hợp với sự
kiên trì mềm dẻo khéo léo, bằng giá trị thực tiễn
của sách để người có quyền lực chấp nhận cho mình làm sách một cách thỏa
đáng. Nếu không kiên trì kiên định và chất lượng công trình kém hiệu quả thì không
thể có việc Nhà nước cấp kinh phí
cho các đề tài nghiên cứu của mình được. Vì thế tôi mới có mấy chục đầu sách được xuất bản, tái bản và phát hành rộng
rãi...”.
Dường như
trong cuộc đời thực, mỗi tác giả thường “hữu duyên” với một hoàn cảnh cụ thể, để
từ đó trở thành nơi
ấp ủ và thăng hoa
những sở nguyện của
mình. Nhà giáo - nhà
nghiên cứu Bùi Văn Tam là người có may
mắn sớm được hấp thụ những phẩm chất tốt đẹp của hai vùng quê nổi tiếng
cần cù thông minh chính trực với những truyền thống lao động lành
nghề, học hành khoa bảng, yêu nước và cách mạng.
Ông tâm sự: “Tôi sinh ngày 24
tháng 8 năm Nhâm Thân tức ngày 24
tháng 9 năm 1932, trong gia đình nông dân khá giả, vào bậc trung lưu, có buôn bán thuốc
bắc ở làng Cao Phương (nguyên
là làng Cao Hương, cuối đời Tự
Đức đổi là Cao Phương), nay
thuộc xã Liên Bảo huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. Bố
và mẹ cả tôi đều là người làng Cao Phương. Còn mẹ hai -
người sinh ra tôi là người Nghệ
An. Mẹ cả lấy bố tôi đã hơn 10 năm, không
có con, nên ông bà cho bố tôi
lấy vợ thứ, tức mẹ tôi, một năm sau mẹ tôi sinh tôi. Vì bố
tôi là con út nên bà nội
rất quí con, bắt bố tôi
(lúc đó đang hành nghề bán thuốc bắc ở Nghệ
An) phải đưa mẹ tôi về quê ở làng
Cao Hương để sinh tôi... Sinh được ba tháng, bố
mẹ đưa tôi trở lại Cầu
Giát, Quỳnh Lưu, Nghệ An. Từ đây tôi
sống ở quê hương thứ
hai - Quê mẹ. Nhưng
tôi luôn gắn bó với làng Hương
quê cha vì hầu
như từ năm 6 tuổi, hầu như năm nào bố tôi cũng cho về quê thăm
bà và mẹ cả...” Làng Cao Phương quê nội
của ông là một trong
những mảnh đất nổi tiếng học
hành khoa cử của đất Thiên
Bản “địa linh nhân kiệt”. Một
làng không rộng lắm, đời sống cư dân không mấy
dư dả, nhưng có nhiều nhà nho và
các bậc khoa bảng. Nơi đây tuy là
vùng đất canh tác nông nghiệp, nhưng lại pháttriển hoạt
động tiểu thương, đặc biệt là
nghề buôn thuốc bắc,
thuốc nam. Thật thú vị khi những người làm nghề này thường tự nhủ là nghề bốc thuốc
chữa bệnh cứu người và tự hào
là “nghề buôn nhân đạo”.
Hơn nữa muốn buôn thuốc thì phải biết chữ Hán, nghĩa là phải học phải
đọc được chữ Hán mới dám hành
nghề. Vì thế nhiều
cụ đồ vừa làm nghề dạy học vừa làm thuốc chữa bệnh. Nghề buôn
thuốc trở thành ưu thế
của nhiều gia đình Cao Phương đến với
nhiều nơi, nhất là vùng Thanh - Nghệ.
Đó cũng là duyên do để gia
đình ông có một cửa hàng
thuốc bắc lớn mang thương hiệu
“Quảng Nam Long” tọa lạc giữa thị trấn Cầu Giát, Quỳnh Lưu, Nghệ An và có một quí tử
Bùi Văn Tam ở trên đời. Mặc
dù có những lúc ông theo cha mẹ về quê
nội, nhưng ông có tới 37 năm liên tục
(1932 - 1965) trong chặng đầu của cuộc
đời đã sinh sống, học hành, trưởng
thành, tham gia công tác xã hội và dạy học
gắn với quê mẹ Nghệ - Tĩnh.
Quê cha Vụ Bản Nam Định, trở thành
nỗi nhớ khôn nguôi trong ông, thôi thúc ông sẽ phải tìm hiểu nghiên cứu cụ thể và viết. Để đến khi ông chính thức được chuyển về dạy học ở quê cha dạy học (từ 1965), quê nhà Vụ Bản với đậm đặc những di tích
lịch sử văn hóa đã trở thành nguồn đề tài vô tận
như những vỉa quặng
quí để ông thỏa sức tìm tòi nghiên
cứu. Đối với quê mẹ đẻ
của ông - Cầu Giát, Quỳnh
Lưu, nơi ông gắn bó tuổi
thơ và thời thanh niên
sung mãn cùng với giai đoạn lịch sử dân
tộc - Cách mạng Tháng Tám, kháng
chiến chống Pháp và những năm hòa
bình lập lại, cải cách ruộng đất, luôn
canh cánh trong lòng, để đến hơn 30 năm sau ông
mới giành thời gian thỏa đáng để cùng với địa phương nơi
ông đã sinh sống, viết sách lịch sử
địa phương
quê mẹ bằng dồi dào trữ liệu mà ông từng
trải và lưu giữ...
Dịp đầu xuân Nhâm Dần 2022 vừa qua, Hội
VHNT tỉnh Nam Định tổ chức mừng thọ cho các hội viên cao tuổi, trong đó có hội viên Bùi Văn Tam vào tuổi 90. Mặc
dù đã hẹn sẽ đến Hội, nhưng thời tiết
đầu năm quá lạnh, lại thêm đại dịch
Covid 19 hoành hành, ông đành ở quê. Cùng với niềm
vui thượng thọ tuổi 90, ông điện báo tin vui cuốn sách mới “Hành
trình từ nắng sớm trên
núi cao” thể loại hồi ký của ông, mà dịp trước tết ông
gửi tặng
tôi bản thảo, đã được Nhà xuất
bản Hội Nhà văn Việt Nam ấn hành đầu năm
2022. Đồng thời ông còn cho biết có mấy
bản thảo nữa đã và đang hoàn thiện chờ xuất bản, trong đó
có cuốn truyện ký viết về nghề
thuốc bắc mà ông nặng lòng tri ân. Ông bảo: “Tôi sẽ phấn đấu để năm 2022
hoàn thành những cuốn sách “tôi ấp
ủ” nhân dịp kỷ niệm 45 năm thành lập Hội VHNT
tỉnh, cũng là mừng tuổi 90”. Trộm nghĩ,
phải chăng, ông là người dày
công tìm tòi nghiên cứu tôn vinh các di tích lịch sử văn hóa, các vị thần, các
đấng danh nhân của đất Thiên Bản, nên được sự phù trì linh ứng, ông được hưởng
phúc đức lớn, không chỉ là một trí tuệ minh mẫn, một cơ thể tráng kiện, trường
thọ, một gia đình hòa thuận, hạnh phúc, mà còn là một sức làm việc trên cả
tuyệt vời, tuổi 90 vẫn khỏe mạnh, viết và xuất bản sách đều đặn. Bất cứ ai đã
đọc kỹ tác phẩm của ông đều có cảm nghĩ nói đến Bùi Văn Tam là nói đến Thiên
Bản - Vụ Bản, Phủ Dầy Thánh Mẫu Liễu, Trạng nguyên Lương Thế Vinh... Có lúc tôi
nói vui: Bác Bùi Văn Tam không chỉ là “nhà Văn hóa dân gian học”, mà còn là
“nhà Thiên Bản - Vụ Bản học”, “nhà Phủ Dầy Mẫu Liễu học”, “nhà Lương Thế Vinh
học”... Và tôi nhớ lại mấy dòng ông viết thật ý vị, thung dung, thơ thới:
“Chớ rằng yên phận một bề,
“An
chi”, “Lão giả”,
chẳng hề gắng công!
Sống chung cùng với cộng đồng
Phải
tìm chỗ đứng
dưới vầng Thái Dương...”.