Phạm
Trọng Thanh
Tôi đọc thơ Trần Minh Ân từ những năm Sáu mươi thế kỷ
trước. Thơ anh được in trong tập Lời ca
Sông Vị do Ty Văn hóa tỉnh Nam Định
ấn hành cùng thơ của các cây bút trẻ Nam Định đầy triển vọng ngày ấy: Hoàng
Trung Thủy, Nguyễn Đức Mậu, Phạm Như Hà, Nguyễn Hữu Tình, Trần Trung Hiếu,
Nguyễn Thị Phúc.... Đó là những tháng năm đáng nhớ khi nhà thơ Nguyễn Bính từ Hà
Nội về công tác tại Phòng Sáng tác Ty Văn hóa, biên tập thơ, trực tiếp hướng
dẫn sáng tác, khuyến khích các tài năng trẻ. Những cuộc gặp mặt bạn bè bao năm
còn đó tình thơ lưu luyến.
Những năm không lực Hoa Kỳ leo thang gây chiến tranh
phá hoại miền Bắc, trận địa tên lửa, pháo phòng không đặt ngay trên đất Thiên Bản lục kỳ sẵn sàng chiến đấu.
Thầy Trần Minh Ân, Hiệu trưởng trường THCS Kim Thái cùng với các trò ngoan của
mình bước vào các buổi học ngắt quãng bên cạnh hầm trú ẩn sau tiếng kẻng vỏ bom
chát chói. Trò chơi của các em là đánh trận giả - như thật: “ Trẻ bầy trận địa ven đê/ Hiệp đồng bắn tàu
bay Mỹ.../Ngắm diều lơ lửng tầng mây/ Chỉ huy hô “Các đồng chí!/ Mục tiêu hướng
cánh diều bay...” (Trẻ thơ cũng thành chiến sĩ).
Tiễn bạn bè, đồng nghiệp lên đường nhập ngũ, Trần Minh
Ân lại có thơ tình chiến đấu: “Trao vội
cho anh cả đời con gái/ Đêm chia ly trên bến Đại Hoàng/ Vầng trăng rọi như lưỡi
lê ngời sáng/ Canh giữ tình em sông nước mênh mang” (Đêm thời chiến).
Từng ngả mũ trước bài thơ Đồng chí của nhà thơ quân đội Chính Hữu với hình ảnh “Đầu súng trăng treo”, tôi thật sự ấn
tượng với câu thơ của Trần Minh Ân, tả vầng trăng thượng huyền trong đêm chiến
tranh “như lưỡi lê ngời sáng/ Canh giữ
tình em sông nước mênh mang”...
Đầu xuân Canh Tý, 2020 , chúng tôi có buổi hàn huyên.
Trần Minh Ân ngỏ ý in sách - một tập thơ mới sắp hoàn thành tiếp theo các tập Con về lễ hội, Nguyên vẹn tình yêu, Nguyễn
Minh Không với chợ Viềng Phủ Dầy. Tôi nghĩ về anh, một nhà giáo đôn hậu,
chân thành, sống có trách nhiệm, góp công đầu dựng dậy Câu lạc bộ thơ văn Thiên Bản huyện Vụ Bản, hoạt động rất bài bản,
có nhiều thành tựu. Một ủy viên Ban Chấp hành Hội thơ Đường luật Việt Nam năng
động; một người mạnh dạn đứng lên thành
lập Hội thơ Đường luật tỉnh Nam Định
rồi được bầu làm Chủ tịch Hội. Một người đã nghỉ hưu còn tham gia gánh vác công
việc Hội giáo chức ở xã; công việc văn chương thơ phú ở huyện, ở tỉnh... chưa
lúc nào nghỉ ngơi. Những buổi sinh hoạt nghiệp vụ định kỳ được chuẩn bị kỹ
càng; nhiều cuộc giao lưu thơ trong Nam ngoài Bắc được tổ chức gối
sóng; những buổi lễ kỷ niệm danh nhân đất nước diễn ra ở nhiều nơi. Rồi hội chợ
Viềng đầu năm, lễ hội “tháng Ba giỗ Mẹ” với hình ảnh đặc trưng “Hội xuân gió loạn đuôi cờ” (thơ Nguyễn
Bính) trên đất danh hương Vụ Bản giàu truyền thống văn hóa, lịch sử.
Và hôm nay trước tiết Lâp đông, tôi tiếp cận bản thảo
tập thơ gần bảy mươi bài gồm các thể thơ: thơ tự do, thơ ngũ ngôn, lục ngôn, tứ
tuyệt, thất ngôn bát cú, lục bát trong thi phẩm Tình yêu dọc theo đất nước của
nhà giáo - Cử nhân Trần Minh Ân. Xin nói thêm rằng, Trần Minh Ân trở lại với
thơ sau một thời gian dài vắng bóng do công việc giảng dạy và quản lý học
đường. Anh trở thành Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Nam Định. Sống và viết nhất quán,
anh phấn đấu để trở thành nhà thơ trên vùng quê có nhiều tài năng văn chương
nghệ thuật hàng đầu đất nước. Nếp sống văn hóa với những thuần phong mỹ tục bao
đời, ông cha dày công xây dựng từ thuở các vua Hùng dựng nước, lập nên đất
Thiên Bản xưa – Vụ Bản ngày nay.
Truyền thống văn hiến quê hương đã cho anh một tầm
nhìn, một định hướng khi bước vào công việc học tập, tu dưỡng, nghiên cứu rồi
lao động sáng tạo thi ca như những người đi trước. Anh làm thơ để trả nghĩa quê
hương. Những sáng tác về bậc “Mẫu nghi Thiên hạ” với quần thể kiến trúc Phủ Dày
Vân Cát – Tiên Hương nổi tiếng cả nước từ thời Lê Trung Hưng đã minh chứng cho
điều này. Thơ anh thăng hoa từ cảnh quan huyền diệu quê nhà:
“Trên hai cồn
cát như mây/ Hiện ra quần thể Phủ Dầy uy linh/ Nơi này Tiên chúa giáng sinh/
Một thiên huyền thoại trữ tình nên thơ/ Con về lễ hội cầu mơ/ Một mình tâm niệm
ngẩn ngơ một mình/ Phủ Dầy lễ hội tâm linh/ Phủ Dầy- Hội của nhân tình thế
gian...”.Những dòng lục bát trữ tình
hướng nội sâu lắng riêng tư mà thật nhân văn ở hai câu kết: “Người người cầu lộc, cầu tài/ Riêng con cầu
phúc cho người mình thương” (Con về lễ hội).
Đây Phủ Vân
Cát “Linh thiêng huyền tích dẫn vào..cõi xưa!” với bút pháp tự sự - trữ
tình, tác giả dẫn ta vào nơi Tiên chúa giáng sinh “Cung Đệ nhất rực hào quang/ Phòng văn hay Quán cỏ vàng, dấu nôi?/
Giáng Tiên tài sắc hơn người/ Sinh từ nguyên khí đất trời Văn lang”.
Đây Phủ Tiên
Hương, nơi Tiên chúa xuất giá - một bài thơ lấp lánh kể và tả thật sinh
động. Tầng tầng, lớp lớp thềm hoa mái ngói “trùng thiềm điệp ốc” hoành tráng mà
tao nhã trong thơ Trần Minh Ân khắc ghi sông đức: “Chúa Tiên duyên nợ một thời/ Lung linh huyền tích, chói ngời sắc phong/
Lòng Người mở rộng mênh mông/ Tài ba biến hóa thần thông lẫy lừng/ Cứu nhân độ
thế, bao dung/ Dấu chân in khắp mọi vùng nhân gian”.
Thật đáng ghi nhận sự chuyên tâm lao động sáng tạo của
một tác giả thơ trước mỗi công trình kiến trúc trong quần thể di tích Phủ Dầy: Lăng Mẫu tuyệt mỹ, Nguyệt Du Cung lung linh“Sử
thi đạo Mẫu Việt Nam/
Trinh-Từ-Hiếu-Thuận lưu ngàn đời sau”. Huyền tích đã vào thơ Trần Minh Ân
với những tứ thơ đặc sắc Nguồn Tiên, Lầu
Thơ, Mưa xuân Khải Thánh đài, Đền đức Vua, Cầu duyên, Huyền diệu hoa sim
...những dòng thơ tâm linh, tâm tưởng thành kính, tha thiết tình đời.
Hình tượng Mẫu
Thượng Ngàn (Đệ Nhị) ngự trong khám thờ giữa cảnh quan ngôi đền trên núi
Tiên Hương: “Hồi chuông ngân chảy trong
veo/ Xuống dòng Ba Sát lượn theo chân đồi.../Tục truyền công chúa Thiên Thai/
Giáng sinh hạ giới, quyền oai lẫy lừng/ Trông coi đồi núi trập trùng/ Thác ghềnh,
khe suối, tận cùng ngàn sâu/ Non thiêng, cầm thú quy, chầu/ Chim muông ca hót,
đỡ đầu sơn trang”...
Huyền tích
Mẫu Thoải (Đệ Tam): “Coi miền sông nước mông lung/
Làm mưa cứu sống những vùng cạn khô/
Tháo lui nước úng ngập bờ/Điều hòa nguồn nước sông hồ trần gian”...
Bạn yêu thơ còn gặp trong tập thơ này những bài thơ
đậm nét sử thi: Đền Công đồng, Đình ông
Khổng, Tiếng chuông Phủ Nội, Cội nguồn Khải Thánh Đài, Mưa xuân Khải Thánh Từ...
những công trình trong quần thể kiến trúc Phủ Dầy, Vụ Bản, Nam
Định, có một không hai trên đất nước ta. Có thể nói, với trên hai mươi bài thơ
châu tuần vào chủ đề Con về lễ hội,
Trần Minh Ân đã đưa bạn yêu thơ vào không gian nghệ thuật một giao hưởng thơ,
kết nối nhiều phân đoạn về Văn hóa tâm
linh Đạo Mẫu Việt Nam. Tác phẩm này được công bố năm 2005, sau đó, được tái bản mấy lần.
Chúng ta đều biết Di sản “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu
Tam phủ của người Việt” được UNESCO ghi danh tại Danh sách “Di sản Văn hóa phi
vật thể đại diện của nhân loại”, ngày 1 tháng 12 năm 2016 mà tỉnh Nam Định vinh
dự được nhận trách nhiệm làm đại diện trước diễn đàn hội nghị Quốc tế, Ủy ban
Liên Chính phủ, diễn ra tại nước Cộng hòa Dân chủ Liên bang Ê-ti-ô-pi-a. Như
vậy, trước sự kiện tôn vinh Đạo Mẫu ở tầm Quốc tế này 11 năm, thi phẩm Con về lễ hội của nhà giáo Trần Minh Ân
đã góp công vinh danh Đạo Mẫu trên quê hương Kim Thái, Vụ Bản - miền đất giáng
sinh của Người.
Trong tập thơ thứ tư Tình yêu dọc theo đất nước
này với không gian nghệ thuật rộng mở từ Bắc vào Nam, những bước dài thi cảm, thơ
Trần Minh Ân có thêm những điểm sáng đáng mừng. Từ tiếng khánh đá chùa Linh
Sơn: “Tiếng khánh đá tự ngàn xưa vọng
lại/ Với bây giờ thổn thức giao thoa” là niềm tâm cảm sâu xa. Đến tiếng mõ
chùa Non Ông: “Tiếng mõ ni cô nghe trẻ
lắm/ Gõ vào tiếng nấc chốn hư không” thì ý thơ xa rộng vô cùng! Trong cõi
vô cùng ấy, thanh âm trong thơ Trần Minh Ân cất cánh khi anh lắng nghe nhã nhạc chuông, trống nơi Phủ Tiên
Hương mà cảm nhận được: “Thanh trầm
thấm xuống thủy cung/ Thanh cao bay tận
chín tầng mây cao” thật là tài.
Tôi
được biết, các vị cao tăng trụ trì tại chùa Yên Tử tấm tắc khen hai câu thực trong bài thơ Đường luật Yên Tử của Trần Minh Ân là “có thần”: “Tiếng mõ sỏi vàng gieo bậc đá/ Hồi chuông
suối ngọc đổ sườn non”. Thật hạnh phúc đối với người làm thơ khi có được
trong đời những độc giả “thần giao cách
cảm” mà thơ hạnh ngộ. Xin chép ra đây cả bài thơ Yên Tử để cùng tưởng thức: “Chùa
Đồng tọa lạc đỉnh chon von/ Giữa biển
mây trôi đảo một hòn/ Tiếng mõ sỏi vàng gieo bậc đá/ Hồi chuông suối ngọc đổ sườn
non/ Đường tùng Vua-Phật ngời trang sử/ Lối trúc Thiền Lâm dấu vẫn còn/ Ngưỡng vọng người xưa
đầy hướng thiện/ Dâng hương thành kính tấm lòng son!” – Một bài thơ Đường
luật tiệm cận sự toàn bích của Trần Minh Ân.
Cảnh quan, danh thắng đất nước hiện hữu trong thơ trên hành trình du lịch văn hóa, giao lưu với
các thi hữu gần xa của tác giả. Các bài Bãi
Cháy, Bái Đính, Sầm Sơn, Quảng Trị, Đà Nẵng, Huế, Vũng Tàu ...dạt dào tình
yêu đất nước. Thơ viết về các anh hùng dân tộc: Lý Nam Đế, Trần Hưng Đạo thành
kính, trang nghiêm; về các danh nhân văn hóa Lương Thế Vinh, Nguyễn Du, cảm
phục tài năng trác tuyệt; về các nhà thơ quê hương: Nguyễn Bính, Trần Tế
Xương.. . Anh rất tâm đắc khi viết được bài Cảm
nhận thơ Tú Xương có hai câu kết để đời: “Thần thơ Thánh chữ” lưu muôn thuở/ “Việt hóa Đường thi” để vạn đời”.
Đây quả là hai câu thơ đúc kết tài năng thi ca trác việt của nhà thơ non Côi
sông Vị, hai câu thơ thật đáng khuyên son.
Đất nước trải qua những cuộc chiến đấu vì độc lập tự
do của Tổ quốc vô cùng gian khổ.
Tại nghĩa trang Hàng Dương - Côn
Đảo, hàng vạn người yêu nước hy sinh:“Thấp
thoáng bao hình bóng/ Linh hồn hay khói hương .../Lắng trong mồ liệt sĩ/ Ào ạt
sóng trùng dương/ Ngọn lửa bùng trong gió/ Như ngôi sao dẫn đường” (Đêm
Hàng Dương). Một đồng nghiệp trở về lên
lớp: “Phải vật lộn đớn đau – binh trạm
cứu thương/ Để tập viết bằng bàn tay trái/ Thày giáo thương binh hôm nay trở
lại...” (Viết tay trái). Cậu bé Tìm cha là liệt sĩ : “Nhìn gương mẹ - chạnh buồn côi cút/ Con tự
soi mình tìm nét mặt cha”. Thật cảm động khi đọc những dòng thơ chia sẻ
những mất mát, hy sinh của Trần Minh Ân.
Tôi chú đến những tâm sự riêng của tác giả trong tập
thơ này. Những bài Sóng, Nhớ bến đò ngang
viết về tình thày trò thật ân cần, sâu lắng. Những câu thơ vui nhộn thời trai
trẻ (Say), những câu thơ mang triết
lý nhân sinh đầy trải nghiệm khi anh bước vào tuổi bảy mươi (Tâm sự, Lựa chọn, Lối sống...). Đặc
biệt, tôi chú ý đến những bài thơ tình đằm thắm của một ông giáo làm thơ:
“Vừa lúc soi
mình trong gương/ Bắt gặp cái nhìn cô gái/ Ôi cặp mắt đen tròn dễ thương/
Bỗng nổi gió cuốn ta vào sóng mắt/ Rồi
từ đấy một vì sao Hôm/ Trên nền gương không bao giờ chịu tắt” (Vì sao Hôm).
“Tình yêu mách thầm chỉ lối/ Bên thềm xanh cây Ngọc anh/ Tôi đến lần đầu
bối rối/ Mượn cớ xin em một cành/ Chùm hoa nõn nà uyển chuyển/
Sáng bừng hương toả vòm xanh”... (Hoa Ngọc anh).
Còn đây là nét duyên quê mang phong vị
ca dao, làm nên vẻ đẹp bên trời trong thơ Trần Minh Ân: Này cô gánh nước bên sông/ Chờ ai mà quẩy thùng không ? Giả đò?/ Tương tư làm khổ hẹn hò/ Khỏa chân làm sóng say cho
hết chiều”(Tương tư). Tôi tin rằng những vòng sóng tình yêu ấy đến hôm nay
vẫn còn xao động bến sông quê…