HOÀNG TRÚC LONG
Có một
người bạn khoe với tôi là mới đọc xong tập ký “Vượt đường gió táp” và vừa gặp “nhân vật chính” Nguyễn Ngọc Đạt tại buổi sinh hoạt câu lạc bộ Người yêu thơ Nam Định. Nguyễn Ngọc Đạt làm thơ và đã có thơ đăng trên một số sách
báo, thi thoảng tôi có xem qua. Đến khi nhận được tập “Nguyễn Ngọc Đạt -
Thơ và
đời” - NXB Văn Học ấn hành, tôi mới
dành thời gian để đọc kỹ toàn bộ thơ của Đạt. Thật ra tôi đọc thơ Đạt là muốn xem
tâm trạng của người
thương binh đã từng được tặng danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, “Dũng sĩ diệt xe cơ giới”, “Đảng viên lớp Hồ Chí Minh” năm 21 tuổi ở mặt trận
Trị - Thiên - Huế...sau
khi rời quân ngũ trở lại cuộc sống dân sự như thế nào hơn là tìm ở đó những gì gọi là tài hoa nghệ thuật. Đạt thường bộc bạch “Khi vui uống rượu,
khi buồn làm thơ” càng đọc tôi càng nhận ra rằng, những lúc buồn là lúcthơ của Đạt
có dịp bay bổng, giản dị và sâu sắc hơn.
Ngày cùng người anh cả
vượt cả trăm cây số trên con đường đây đó còn những hố bom chưa kịp lấp đi tìm mộ người em
út là Nguyễn Ngọc Đát hy sinh trên
chiến trường Thành Cổ - Quảng Trị, được chính
quyền và nhân dân Cam Thanh tận tình chỉ dẫn, anh em Đạt đã đưa được hài cốt của em về an nghỉ tại nghĩa
trang liệt sỹ quê nhà. Trong một đêm không ngủ, nhớ em, Đạt sụt sùi hạ bút: “Lưng tròng nước mắt chứa chan/ Đường về chạy giữa ngút ngàn đớn đau/ Nghẹn ngào
đứt quãng từng câu/
Sao em về với đất
sâu vội vàng?”(1) (Về với em).
Từ ngày đưa được hài cốt người em
về quê,
hằng năm gia đình vẫn theo giấy báo tử của đơn vị
gửi về để làm giỗ cho liệt
sỹ. Thương tiếc người em
hy sinh đang độ tuổi 20, day dứt lắm, xót xa lắm. Ngày giỗ “Bách nhật” của em, vì quá bận, công việc bộn bề của cơ quan, Đạt
không về nhà được, đành đứng lặng một mình: “Đát ơi em có linh thiêng/ Hãy
theo máu mủ tình riêng mà về/ Bát cơm cúng đầy tái tê/ Mẹ cha đặt giữa chiều
quê sụt sùi”...(Bát cơm trăm ngày).
Rồi mỗi lần mùa đông giá rét lại nhớ đến chiếc
áo len xanh của Đát trước khi hành
quân ra trận đã gửi lại cho Đạt làm kỷ niệm. Mỗi lúc mặc
vào như tìm lại hơi ấm của người em
út Đạt thảng thốt: “Ấm rồi mà mắt
xè cay/ Bao nhiêu đau
buốt thấm vào tim anh/ Út ơi áo vẫn
còn xanh/ Nghĩa trang cỏ bạc đã thành ngày
xưa” (Út ơi màu áo vẫn xanh).
Ngoài một số bài như “Về với em”, “Bát cơm trăm ngày”, “Út ơi màu áo vẫn xanh”
... mang màu sắc thơ gia
đình. Trong 97 bài tuyển trong “Hoài niệm” còn một số bài viết về
đề tài chiến tranh khác
như bài “Từ ơi” kính viếng hương hồn liệt sĩ Trần Từ, người bạn đồng hương,
người đồng đội cùng đơn vị ở Trung đoàn số 6 - Đoàn Phú Xuân
- Trị - Thiên Huế. “Ngày ấy ta bơi
truy tìm giặc/ Đạn bom,
khói lửa mái nhà
xô/ Phút giây ngoảnh lại
còn hay mất/ Ta mình
gặp lại bến sông thơ” (Gặp lại mình
trên sông thơ).
Tâm sự với bạn trước giờ xuất kích là vậy nhưng Trần Từ
đã hy sinh khi bơi qua sông Hương, không ngờ bị “chuột
rút” vẫn cắn răng chịu đựng, không dám vùng vẫy mạnh, không dám kêu cứu, lặng lẽ ôm súng buông
mình xuống dòng nước xiết để giữ bí mật
cho đơn vị vượt sông an toàn tiến đánh,
tiêu diệt đồn bốt đóng quân của địch.
Trần Từ hy sinh,
sau trận đánh, trong hoàn cảnh chiến tranh, quân địchtrong
thành phố còn nhiều, đơn vị chỉ còn cách: “Đá xếp mộ, võng tăng thay ván/
Núi Ngự sông Hương đượm bóng Từ/ Ngược về với Huế chiều buông tím/ Chấp chới miền
xưa vẳng tiếng ru”.
Bài thơ này đã
được Báo Văn Nghệ, Báo Quân đội nhân dân in số tháng 4 - năm 2013. Bài thơ tuy
ngắn nhưng có sức lay động trái tim đông đảo bạn đọc.
Tôi biết có người đọc bài thơ này bổng trầm ngâm giây lát rồi cất tiếng “Gan dạ quá! Đáng phục!”.
Lại cả Câu lạc bộ thơ người
cao tuổi trong đó có một số
cựu chiến
binh của hai thời kỳ chống Pháp
và chống Mỹ tham gia. Ngồi bên
nhau nói chuyện về thơ
ca, về bài “Từ ơi”, các cụ đều thống nhất
ý kiến là sự hy sinh
anh dũng của bộ đội ta ở
chiến trường nào cũng có và có nhiều tình huống
hy sinh khác nhau. Chẳng nói đâu xa, ngay ở Quảng Trị - nơi liền dải đất
với cố
đô Huế, trong chiến dịch 81 ngày đêm
ở Thành Cổ, Nguyễn Hải Nghiêm đã viết: “Đồng
đội trong chiến dịch bảy
hai/ Xương thịt nhiều hơn
đất đai Thành Cổ/ Bao đồng đội ra đi không về nữa/ Để đất đai mãi
mãi tươi màu...”(2).
Thơ Phạm Đình
Lân nêu hình ảnh: “Tám mươi mốt ngày đêm đất trời ken dày bom đạn/ Cát trắng
rang vàng nghiêng lệch cả dòng sông”. Dưới mắt thơ của nhà thơ quân đội Nguyễn Đức Mậu
(người bạn thân thiết của Nguyễn Ngọc Đạt) có phần cụ thể về sự
hi sinh
như một điển hình của người chiến sĩ có tên là Bường
trong cảnh “Đêm Thành Cổ ngổn ngang
gạch vụn/ Đoạn chiến
hào đầy tiếng chuột kêu/ Bày chuột đói gặm xương
người/ Sau tiếng thét
Bường lịm dần rồi tắt
thở/ Tôi gọi hoài tên nó gọi tàn hơi/...Tôi
gọi cả hai bàn chân đã mất/ Hai bàn chân lạc trong hố bom cày/ Đêm Thành Cổ mưa
rơi lấp mặt/ Tôi ôm Bường rụng buốt cả vòng tay...”.
Viết về đề tài
chiến tranh, Nguyễn Ngọc Đạt
có một bài thơ nữa có tựa đề
“Nợ”, toàn văn như sau: “Đồng đội mất bảy còn ba/ Hai người thương tật còn ta nợ đời/
Tử sinh nợ ngập đất
trời/ Nợ trăng nợ gió nợ lời cỏ hoa/ Nắng vàng hong những mộng mơ/
Uốn cong gánh nợ trang thơ
tình đời”.
Bài này được Tập san
Người yêu thơ in số tháng 5 - 2011, Tập san báo Pháp luật
in số tháng 4 - 2013.
Cái “mất bảy
còn ba” không chỉ là con số quặn lòng nói về sự mất mát của tiểu đội Đạt trong
một trận đánh mà còn là sự gợi mở để người đọc có thể liên tưởng đến những gì
mình đã trải qua hoặc nghe qua về những trận chiến tàn khốc khi lực lượng đôi
bên ta địch không cân sức.
Cái “nợ” tác giả đặt ra trong thơ, nội
hàm của nó có thể coi là lời
chia sẻ, lời hứa trước
vong linh đồng đội. Cái “ta” trong văn
cảnh này không còn là cái ta riêng
biệt của cá nhân mà đã trở
thành cái chung, là trách nhiệm của những người còn sống đối với các liệt sỹ - những người đã hy sinh thân mình trong
cuộc chiến đấu chống kẻ thù, bảo vệ
quê hương, đất nước.
Sách báo viết
về sự
nghiệp “Thơ và đời Nguyễn Ngọc Đạt” khá đậm nét nhưng sách ông tự viết không nhiều và đặc
biệt là thơ ông viết về đề tài chiến tranh cũng ít hơn. Có những người còn “tôn” ông là nhà thơ, là thi sĩ nhưng trước
sau ông chỉ nói “Tôi chỉ là người mới tập làm thơ thôi”. Nhà văn tiến sĩ Nguyên An
nhận xét: “Thơ Nguyễn Ngọc Đạt thuộc dòng tự phát, tự ngẫu. Trong cái dòng lớn ấy, cái
nhánh thơ nhỏ mà ông theo một cách thật
tự nhiên như vô thức từ một tấm lòng...
Thơ Nguyễn Ngọc Đạt như ông tự
biết là thơ tâm sự, đầy chất riêng tư, nó chỉ có thể được cảm thông nhiều khi ta
đọc mà như độc ẩm. Những lúc đó, ta đừng bị ám ảnh bởi cái gọi là nghệ thuật, kỹ thuật làm thơ. Tôi trộm nghĩ là
hãy để ông Đạt và những người như ông cảm nhận
thế nào thì cứ ghi ra giấy như thế, chân mộc mà không kém sâu xa...”.
Tuổi đời của ông có thể xếp vào hàng “lão
gia”, sức khỏe không còn
được như xưa nhưng xem
ra tinh thần còn minh mẫn. Tuy
vậy ông vẫn có ý định “gác bút” nhưng
tôi biết dòng thơ tự sự của ông
chưa cạn, cái “nợ” của ông với đồng đội
chưa nguôi, tính “hoài
niệm” của ông vẫn chưa hề phôi
phai thì bàn tay run run, ngọn bút
run run thi thoảng vẫn cố ghi
trên mặt giấy những câu chữ như “ký tự” mà chỉ ông mới đọc được. Rồi sẽ đến một
lúc nào đó ông phải nhờ đến bàn tay con cháu ghi lại những câu
thơ ông mới nghĩ ra những bài thơ tự
sự, hoài niệm của ông chắc chắn còn ra đời. Cầu
mong cho điều đó tiếp tục vun đắp để “Thơ và đời” của tác giả Nguyễn Ngọc Đạt mãi mãi tươi xanh.q
-------------------
- Những câu thơ và nhận xét...đều trích từ các tập “Hoài niệm” - NXB Văn Học 2014, NXB Hội Nhà văn 2018.
- Những câu thơ viết về Thành Cổ Quảng Trị trích trong tập “Khúc tráng ca Thành Cổ” - NXB Văn hóa Thông tin 2014.