Trong lòng thuyền lõng, một truyện ngắn dụng công về cấu tứ của Nhà văn Mai Tiến Nghị
Nguyễn Văn Nhượng
Trong
quá trình sáng tác, cấu tứ là một hoạt động tư duy giúp người nghệ sĩ sáng tạo
ra hình tượng nghệ thuật. Nhà lí luận văn học Lưu Hiệp (Trung Quốc) nói: “Cái
kì diệu của cấu tứ là làm cho tinh thần nhà văn gặp gỡ với sự vật khách quan”,
“hình và ý gặp nhau”. Cấu tứ không phải chỉ có trong thơ trữ tình hoặc trong
một tác phẩm nào đó mà có cả trong mọi tác phẩm nghệ thuật. Trong thơ, sự tổ chức
ý và tình, hình và nhạc (cấu tứ) tạo ra tứ thơ. Trong truyện sự tổ chức sắp xếp
hệ thống các chi tiết, tình huống, các tuyến nhân vật sẽ làm nên cấu tứ của
truyện. Cấu tứ là sự cắt nghĩa, lý giải và khái quát hiện tượng đời sống bằng
một hình tượng tổng quát có sức chi phối toàn bộ cảm thụ, suy tưởng và miêu tả
nghệ thuật trong tác phẩm. Chính vì vậy, khi nhà văn nào dụng công về cấu tứ,
sẽ thu về những thành quả sáng tạo nghệ thuật nhất định.
Tôi
đồng quan điểm với nhà văn Mai Tiến Nghị, khi anh cho rằng: “Viết truyện ngắn,
quan trọng nhất là lập tứ. Một khi tứ được lập sẽ gọi về hệ thống chi tiết
tương thích. Chi tiết nếu vượt khung/khuôn của tứ cũng hỏng”. Bên cạnh chất đời
sống, chất tư tưởng, văn hóa, chất văn (hoặc truyện ngắn hay là theo cách của người
đọc) thì ý kiến của nhà văn Mai Tiến Nghị đã xác lập một tiêu chí quan trọng,
xác tín điểm mấu chốt làm nên truyện ngắn hay, đó chính là cách lập tứ, bởi tứ
chính là linh hồn của truyện, cung cấp một thế đứng, thế nhìn, cách cảm nhận để
thâm nhập vào thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Truyện ngắn Trong lòng thuyền
lõng đã được triển khai theo tiêu chí anh đặt ra. Sau khi Trại sáng tác – phê
bình Văn học 2018 kết thúc, truyện ngắn trên đã được đăng ngay trên tạp chí Văn
nghệ Quân đội số 905 (cuối tháng 11/2018) như một pháo hiệu mở màn cho việc đi
tìm truyện ngắn hay.
Trong
lòng thuyền lõng là nhan đề được lựa chọn để đặt tên cho truyện ngắn. Hai tiếng
“trong lòng” đã cụ thể hóa khoảng không gian có ý nghĩa khái quát là “thuyền
lõng”. Trong lòng thuyền lõng là một ẩn dụ nghệ thuật, không gian chật hẹp ấy
là nơi chứa đựng, thít chặt những số phận sống mỏi mòn trong đó, tín hiệu ấy
như nhấn mạnh đến những ẩn ức, bi kịch kiếp người, những bế tắc ích kỉ hẹp hòi,
cả những day dứt, dằn vặt đớn đau do chính con người tự mình gây ra chỉ vì
không thể tha thứ. Trong lòng thuyền lõng là không gian đầu mối kết nối hiện
tại với quá khứ. Quá khứ là tội lỗi, hiện tại là đớn đau, oán hận. Con thuyền
là chứng nhân ám ảnh, chỉ khi thoát ra khỏi lòng thuyền con người mới tự giải
phóng cho chính mình và cho người khác. Tác giả chọn không gian ấy để triển
khai cấu tứ của truyện, từ mở đầu đến thắt nút và cởi nút. Con thuyền lõng chở
lúa trong đêm có ánh trăng giữa tháng vằng vặc là nơi diễn ra chuyện tội lỗi
động giời giữa lão đội trưởng Hội tác xã với cô Xoan, vợ Cánh, chàng bộ đội đi
B, từ đây kéo theo sự ngộ nhận của đứa trẻ 13, chớm tuổi dậy thì là Quán, làm
hại mấy phận người (Xoan bị ruồng bỏ, sống cô độc, ngày ngày niệm Phật, Cánh
chỉ vì không thể tha thứ, đã tự làm khổ, hành hạ đời mình, Quán trở nên câm,
sống ám ảnh bằng tình yêu đơn phương, lão đội trưởng bị trả giá bán thân bất
toại, đứa con cũng chết); từ con thuyền đã vẽ lên một bức tranh “nhập nhòa” số
phận những con người thời hậu chiến, đặc biệt là hai nhân vật Cánh Cụt và Quán
Câm. Thế rồi trên chính con thuyền lõng xi măng chở lúa năm xưa ấy, sau này
được vớt lên sửa sang thêm bằng hai tấm liếp làm mui nhô lên mặt sông, lại là
nơi che chở những phận người khốn khổ, Cánh Cụt và Quán Câm, hai con người “hai
thằng, một cụt chân một câm trên cái thuyền lõng xi măng, ăn trên thuyền ỉa
xuống sông”. Nó vừa là nơi che chở nắng mưa, vừa là nơi gợi nhắc ám ảnh và giam
nhốt hai con người trong sự ích kỉ hẹp hòi suốt mấy chục năm sau hòa bình. Điều
trớ trêu nằm ở chi tiết, từ con thuyền ấy mà một kẻ bị vợ phản bội, một kẻ bị
đẩy đến bị câm, sau này tìm đến với nhau, chung sống với nhau heo hắt, tối tăm
trong lòng thuyền, chia sẻ những nỗi buồn qua bao thời gian mưa nắng. Kẻ ở quê
nhà mòn vai gánh vác những việc nặng nhọc nhất, người đi chiến đấu bảo vệ non
sông trở về với cái chân cụt, cuối cùng nương tựa vào nhau trong lòng thuyền.
Chi tiết này lay động niềm trắc ẩn và có sức tố cáo ghê gớm, do hoàn cảnh xã
hội và do tự mình gây ra, dẫn đến những éo le, trớ trêu của số phận, hạnh phúc
không thể đến trong tầm tay. Qua chi tiết này nhà văn như muốn nói với chúng ta
rằng chỉ họ mới có thể tìm đến với nhau, để biết yêu thương chia sẻ cho nhau,
và chỉ có họ mới tự mình thay đổi không gian sống cho mình, và chỉ khi chịu
thay đổi không gian sống chật hẹp mới giải thoát được những suy nghĩ chật hẹp
để sống khoan dung, tha thứ và hòa hợp. Từ một biến cố cuộc đời, từ cái đêm
trăng tội lỗi trong lòng thuyền ngày ấy, họ đã tự ràng buộc nhau để rồi cam
chịu sống trong sợ hãi, ám ảnh hận thù, lầm lũi cô đơn, xa cách và hối tiếc gần
hết một đời người, đó là ba nhân vật Quán, Cánh và Xoan.
Trong
lòng thuyền lõng tựa như một cuốn tiểu thuyết thu nhỏ, vượt ra ngoài khuôn khổ
hạn hẹp về dung lượng của một truyện ngắn, nhà văn đã chọn lọc khá đắt hệ thống
các chi tiết có giá trị để triển khai một cách chặt chẽ nút thắt và nút mở của
truyện, khái quát hóa khá toàn vẹn và tương đối tròn trịa về ba số phận: Cánh,
Xoan và Quán. Số lượng nhân vật và mạch kể vừa đủ để làm toát lên chủ đề tư
tưởng của truyện, có nhiều chi tiết ám ảnh người đọc, như những chi tiết: con
thuyền trong đêm, tay đội trưởng đùng độc chiêu, tụt quần và đẩy Quán ngã vào
Xoan để làm cớ đổ vấy; Quán sợ vãi đái, ngất xỉu trong đêm rồi trở nên câm hẳn;
Quán chiếm giữ hình tượng Xoan bằng cách đêm đêm rình mò tự thỏa mãn, Quán bảo
vệ Xoan bằng cách đêm đêm, “nhảy mất hút lên bò” ném đá tất cả những ai đến với
Xoan, Quán giằng co bảo vệ túp lều của mình bằng nồi nước mỡ sôi, rồi đi tù,
Quán lao chiếc lạng xuyên thủng lòng thuyền xi măng đang mục, Cánh trở về nhà
trong không gian ấm áp thanh bình của tiếng gà con liếp chiếp gọi mẹ…Trên nền
không gian chính là lòng thuyền, tác giả dựng nên ba nhân vật với ba số phận,
phát triển trên một mục, theo đó lần lượt các chi tiết xuất hiện, tạo thành một
hệ thống chỉnh tề, gọi về tứ truyện. Nhân vật Cánh xuất hiện ấn tượng, chân
thực trong “giọng rè rè loang cả mặt sông” trong câu hát đầy hờn oán, trách móc:
“Vì ai…ai xúi giục…cho mình…tâm…nhị tâm”.trong tiếng chửi đầy cay đắng, nghiệt
ngã: “Mẹ nó! Thằng đi đánh nhau tợt mặt sống chết không biết thế nào, thằng ở
nhà hưởng hết…Giờ cũng vẫn hưởng, còn thằng bỏ xương bỏ máu thì khốn nạn đủ
đường”, “Tao hận con Xoan một thì căm cái thằng kia mười”. Đó cũng là những trớ
trêu, nghịch lý sau chiến tranh mà người lính thường vấp phải. Tuổi trẻ đi đánh
giặc, vợ ở nhà bị tay đội trưởng “hủ hóa”, trở về mất một chân, bởi hận người
vợ phụ tình mà không trở về nhà, cắm một miếng đất ven đường làm ăn, tưởng yên
ổn mưu sinh, xã bất ngờ lên thị trấn, đất trở nên có giá và bị cướp trắng trợn,
Cánh bị đẩy vào tù với tội danh “chống người thi hành công vụ”. Ra tù, anh sống
dưới gốc cây trải áo mưa nằm ngủ, lúc thức thì trông mảnh đất của mình mà “bất
động mắt văn đỏ nhìn sang căn nhà ba tầng của con lão Phó chủ tịch như muốn đốt
cháy nó ngay lập tức”. Cứ vậy, Cánh “nắng cũng ngồi, mưa cũng ngồi”, sau cùng,
Quán Câm lấy chiếc thuyền lõng bỏ hoang bao năm, che liếp buộc gốc cây làm nơi
hai người tá túc, chính quyền lại xua đuổi, thuyền dong ra giữa sông, họ rượt
đuổi chán rồi cũng thôi. Cái vòng luẩn quẩn ám ảnh vào số phận. Kết truyện để
giải quyết những nghịch cảnh “Đứa đi từ, đứa đi tu vì đâu đến nỗi. Tù mù cái
kiếp cái duyên. Cũng bởi cái con thuyền”. Tác giả đã cho cánh trở về trong vòng
tay ấm áp của Xoan trong ngôi nhà thân thương của mình, với sự thức nhận dẫu có
là muộn: “Nhà mình! Ôi chao…phí cả một cuộc đời”. Âm thanh tiếng gà con liếp
chiếp gọi mẹ như gọi về tình chồng vợ bao lâu nay mất đi chỉ bởi lòng chưa đủ
rộng để dung chứa những lỗi lầm, tha thứ cho người khác, chỉ bởi một sự thật
trớ trêu khó vượt qua: “Nó chửa thì phải đẻ, nhưng đứa con lại không phải con
tao. Làm sao tao có thể về ở đấy khi cái bằng chứng phản bội lại sờ sờ trước
mắt…”. Cánh tin theo lẽ thường mà bỏ qua hoàn toàn “Đàn bà khi đã ngoại tình
một lần thì chắc chắn sẽ có lần hai, lần ba” nên không nhận ra một lẽ sống rất
đỗi đơn giản, tha thứ cho người cùng là cách mang lại sự thanh thản, hạnh phúc
bình an cho chính mình. Quán Câm sau nhiều năm san sẻ nhọc nhằn với Cánh đã có
một hành động âm thầm và quyết liệt, Quán không tự làm khổ mình và người khác
bằng sự chiếm hữu đơn phương nữa, đã tự tay phá bỏ con thuyền, một sản phẩm
quái thai, gây ra bao tội lỗi, mà chính mình đã từng phục dựng. Quán Câm đưa
Cánh về ngôi nhà xưa, sống nốt phần tuổi già bên người vợ, còn mình thì vào Nam
theo anh trai sau bao năm bám trụ dật dờ ở mảnh đất quê hương không người thân
thích. Hành động giơ nạng lên cao, lấy hết sức lao cái nạng cắm xuống chỗ nứt
của con thuyền. Phá thuyền là phá đi những ẩn ức, hận thù, để biết khoan dung
tha thứ, sống tốt hơn cho mình và cho người. Truyện kết thúc nhân văn hợp tình
hợp lý. Có thể nói, cấu tứ chính là mô hình nghệ thuật tác phẩm, là quan niệm
nghệ thuật về thế giới và con người của nhà văn. Việc tìm được một tứ hay cho
truyện không phải dễ, tìm được tứ rồi buộc nhà văn phải tạo dựng và sắp đặt
những chi tiết đắt, tương thích để thể hiện tứ, tất cả đòi hỏi ở tài năng và
tính chuyên nghiệp của nhà văn. Trong lòng thuyền lõng đã có sự dụng công cho
một tứ truyện hay vậy.