Bút ký
Phạm Trọng Thanh
Người bạn
thơ, anh Nguyễn
Văn Nhuận đã đôi lần kết nối từ mobiphone
đến Facebook, dù chưa trải qua “năm tao, bảy tuyết”
hẹn hò, nhân vật chính:
Cô lái đò
sông Châu vẫn chưa xuất hiện ở chốn
quê nhà. Khó thế, người ơi, cái việc “hầu
chuyện thiên hạ”. Tôi cùng anh - người
đồng hành thân thiết từ thuở Ty Văn hóa Nam Hà sơ tán về thôn Đức Bản, xã Nhân Nghĩa,
huyện Lý Nhân, Hà Nam hạ trại, cùng bắt tay nhau làm một chuyến “về nguồn”, mong tìm lại bóng dáng người xưa, bến cũ, con đò trên 50 năm trước đã
vào trang văn những đồng nghiệp củathi
nhân chân quê Nguyễn Bính.
Ngày sau tiết lập đông giăng đầy sương
sớm. May sao, giời thương kẻ khó, cứ chốc chốc “ông” lại đãi đằng nồng hậu thêm
thứ nắng lụa dịu dịu, se se của bãi bờ
dâu tằm, mật nhãn, trầu thơm với những vườn
hồng Lý Nhân chấm son vào câu thơ Nguyễn Bính. Rong ruổi miền Nam Xương cố quận ngày nào, nay đường đi lối
lại đã mở rộng, trải nhựa tinh tươm. Đường thôn,
lối bến thầm lặng bao đời, giờ đây cũng đồng loạt nâng cấp, trải bê tông bền chắc chạy về đến tận các bờ ao, cổng
ngõ. Con sông Châu xuôi về Nhân Nghĩa, đôi bờ nhiều nhà cao tháp xanh, mái đỏ, cửa gỗ,
cửa gương ngó nghiêng soi bóng khiến
du khách ngỡ ngàng. Xe máy rì rì vừa đi
vừa nấn ná hỏi đường về Tầu Giang, Đức Bản, nơi UBND xã Nhân Nghĩa từng
thu xếp cho bộ máy lãnh đạo Ty Văn hóa NamHà cùng mấy Phòng nghiệp vụ nương nhờ các nhà dân, đặt nhiệm sở triển khai công tác phục vụ sản xuất chiến đấu những năm chống
Mỹ. Kỷ niệm xưa vẫn còn trong ký ức
người cao tuổi, trong câu chuyện nghĩa xóm
tình làng.
Chúng tôi đến
bến đò Đức Bản bên dòng sông Châu phẳng lặng. Sông xưa bến cũ, bóng đa, bậc đá vẫn còn đây. Con đò nối bến sang chợ Chủ, Ngọc Lũ ngày lẻ bên kia, chợ
Quán, Nhân Nghĩa, ngày chẵn bên này hãy còn cắm sào nép bóng tre bờ bên kia đợi
khách. Ngày chưa xa, thời đò ngang,
thuyền nan, thuyền đinh, thuyền buồm
là phương tiện giao thông thiết yếu
gắn với lề lối sinh nhai, công việc đồng áng, chợ búa, làm ăn, buôn bán, giao thương cả một miền quê mấy bề sông nước.
Bến đò Đức Bản xưa còn có tên bến đò Ông Ố, cụ thân sinh ông là người mở bến hay làm việc nghĩa của làng. Gia đình cụ xuất tài lực xin với làng cho tu bổ
bến đò, đóng thuyền gỗ, giao cho người
nhà túc trực khuya sớm chở đò phục vụ
người quá giang. Công việc xuôi chèo
mát mái, gia đình cụ được tiếng tốt, nhẹ vía may đò,
không gây phiền hà cho khách sang sông. Chở đò thành nghề gia bản kể đã mấy đời cha truyền con nối. Cô lái đò sông
Châu - Trần Thị Thoa là cháu nội của
cụ.
Ông Trần
Văn Chương, trưởng tộc, cháu
nội của cụ chủ bến đò xưa cùng bà Nguyễn
Thị Tiên, vợ ông ở tuổi 82. Ông bà vẫn
còn tinh anh, ân cần tiếp chúng tôi trong
ngôi nhà xây từ năm 1934 đã trùng tu,
cụ cố xưa để lại cho con cháu. Ba nếp nhà xây khuôn viên kề nhau của gia đình
ba anh em ông Chương được phòng Bảo tàng
Ty Văn hóa của tỉnh nhờ cậy, chọn làm nơi triển khai công tác thời chống Mỹ lưu trữ, bảo quản tài liệu lịch sử văn
hóa của tỉnh. Ông Chương có 30 năm công
tác ở Ban Vận tải Đường sông, nghỉ hưu từ năm 1992. Con cháu của ông bà nhiều người là giáo viên, người công tác ở
Hà Nội, người dạy học ở quê nhà. Ông cho chúng tôi biết: Bà Trần Thị Thoa, em gái thứ tư của ông, từ
thành phố Hồ Chí Minh đã bay về quê chồng, hẹn với anh chị, buổi chiều sẽ sang đây. “Nhà chúng tôi có bà thím, tuổi 97, yếu mệt, cô ấy về thăm
bà. Các bác gặp may đấy”! Khỏi phải nói, chúng tôi vui như thế nào!
Trên đường đi tìm ngôi nhà Nguyễn
Bính sơ tán năm xưa, tôi chợt nhớ lời bạn
than thở lúc khởi hành: “Cái số ông Nguyễn
Bính vất vả long đong thật. Đến cả cô lái đò muốn chết thay để ông sống làm thơ,
hẹn gặp rồi mà vẫn không sao gặp được”. Bạn tôi là hội viên Hội Văn học Nghệ
thuật tỉnh Hà Nam chuẩn bị cho chuyến đi này.
Tôi thủng thỉnh: “Ông thấy chưa.
Cả ông Nguyễn Bính năm xưa và công việc chúng ta đồng hành hôm nay sắp đến đoạn kết của một “Chuyện
văn chuyện đời” có hậu. Giời
có mắt đấy chứ!” Anh nhẹ nhàng: “Đúng vậy”.
Tập kết ra Bắc từ mùa hè năm 1954, Nguyễn Bính về công tác ở Hội Nhà văn
Việt Nam rồi làm báo Trăm hoa ở Hà Nội, thay anh cả Trúc Đường. Khi báo Trăm hoa bộ mới không phù hợp với thời
cuộc, Nguyễn Bính về quê. Bạn bè đồng nghiệp chứng kiến một sự hồi sức và nhập cuộc thật
bài bản của Nguyễn Bính trong chuyến “qui cố hương” sau các chuyến hành
phương Nam, hồi phương Bắc... Chỉ kể về số lượng tác phẩm mới, ông có thêm 2 vở chèo,
một trường ca đoạt giải
báo Văn nghệ, mấy tập thơ trữ tình, truyện
thơ phục vụ đấu tranh thống nhất đất nước. Năm 1962, nhà thơ nhận lời mời về làm việc ở phòng Sáng tác Ty Văn
hóa Nam Định, phụ trách công việc biên tập thơ, tham gia bồi dưỡng các cây bút trẻ của tỉnh. Trước ngày máy bay Mỹ ném bom thành phố Nam Định, ông hăng hái lên đường cùng anh em đồng nghiệp cơ quan sơ tán về miền thượng Lý Nhân từ mùa hè năm 1965. Nguyễn Bính về đây, ở nhà ông Kiểm, thôn Đức Bản Nội. Ở đây, mênh mang như trời là trưa
hanh hánh nắng sánh mây mềm sóng nước
đường cây bờ bãi lụa là sông Châu. Thứ ánh sáng nhẹ tươi chín thầm những tâm hồn cây “Lòng bưởi đào lòng gấc đỏ
như son”. Tiếng rì rầm ngàn năm đất bãi phì
nhiêu làm ông ngơ ngẩn. Nguyễn Bính sao
có thể biết hôm nay trên dải đất Hà Nam thời hội nhập đang về đích xây dựng nông thôn mới vẫn có những người thương quý, ghi
nhớ hình bóng thi nhân áo vải, dép lốp qua lại miền quê thuần hậu này. Khách hỏi thăm chừng. Các cô giáo trường Tiểu học Đức Lý điện đàm hỏi giúp. Rồi cô giáo dạy Văn trường THPT Lý Nhân vui vẻ chỉ lối
cho chúng tôi tìm về ngôi nhà mái lá, vách thưng, nơi Nguyễn Bính đặt chõng,
kê bàn làm công việc của một
nhà thơ chuyên nghiệp. Khách đến bâng khuâng vì không hẹn trước. Ông Kiểm chủ nhà xưa...
các con cháu ông đều vắng nhà. Nhà xưa ngõ cũ,
cổng rào để ngỏ, thay vào là cổng vòm thép tuýp, khóa đồng, nhà xây chỉnh trang đời
mới. Chỉ còn lối cầu ao, mặt nước cánh bèo,
bóng nhãn với cánh buồm heo may xanh
mở trên tàu chuối ngự đung đưa ít nhiều
dáng dấp thuở xa xưa. Chiều, quay về
nơi hẹn gặp. Tôi chưa hình dung cô lái đò cuối cùng trong đời thơ Nguyễn Bính
vóc dáng ra sao thì anh bạn tôi reo khẽ: “Kia rồi, kia rồi! Cô ấy đã về”. Tôi vui hơn cả khách sang sông được người chở đò đón đợi. Một tiếng chào giọng nữ trung trong trẻo và người
ấy bước ra khoảng sân đón khách. Mái tóc
đen, gương mặt tươi sáng, trang phục của một
phụ nữ chững chạc, lịch thiệp. Cô lái đò tuổi mười sáu “bẻ gãy sừng trâu” năm xưa
đây ư? Cái người chở đò không bao giờ lấy tiền đò Nguyễn Bính, cái người khi
nhà văn Chu Văn báo tin bác Nguyễn Bính làm thơ sang đò năm ngoái đã mất, đã
òa khóc bên mái chèo, rằng “Cháu muốn được
chết thay để bác Bính sống làm thơ” là đây? Giọt nước mắt thánh thiện ấy, chắc
sông Châu còn giữ...
Trong ngôi nhà nền nếp này, cô lái đò sông Châu đã có một tuổi thơ êm đềm. Bà mẹ chở đò ngang tài lắm. Khi đò sang bến đón khách, bà tựa lưng vào tấm chắn, chèo đò bằng chân. Thuộc ca dao, dân ca... bà dạy con chèo lái thành thục, dạy con hát. Sinh năm 1950, Trần Thị Thoa lớn lên trong một gia đình đông
anh chị em thuận hòa. Năm học lớp bảy, cô
được mẹ phân công chở đò đỡ chị Tam từ
chiều thứ bảy sang ngày chủ nhật.
Giao việc cho Thoa, bà mẹ yên tâm.
Cô con gái thứ tư của bà chăm học, chăm
làm, nhanh chân nhẹ miệng, giỏi bơi,
là “vận động viên thanh thiếu niên”
trong lứa học trò trường quê. Ngày ấy, chợ Chủ bên Ngọc Lũ có cửa hàng mậu dịch
bán hàng tem phiếu. Các bác, các chú
bên Ty Văn hóa thường sang đò mua
các thứ nhu yếu phẩm mang về. Cô lái đò sông Châu nhanh nhẹn, ân cần được mọi
người quý mến. Lên đò, có chú mở sách ký họa tặng cô. Có chú hát ca khúc mới theo nhịp chèo đưa. Chuyến đò chở văn nghệ sĩ thật vui. Bác Bính còn có
thơ tặng cô cháu lái đò, song bác vẫn giữ vẻ thanh thản, điềm tĩnh. Những lần một
mình bác sang đò vào ngày chủ nhật với chiếc xe đạp, chiếc túi vải xuềnh xoàng ngoắc vào ghi-đông. Hai bác cháu trên một
con đò, bác thong thả hỏi chuyện học hành
của Thoa. Biết Thoa là học sinh giỏi, bác Bính khen. Có lần chiếc túi vải mang về không, vì hết hàng, bác lại có câu mời đối: “Đi chợ Chủ, chủ mua đường, đường không mua được, chỉ mua đường”
đọc cho Thoa nghe. Bác hỏi:
“Cháu nghe bác mời đối được không?”
- Dạ, thưa bác, cháu hiểu ý tứ của bác, hay lắm ạ. Cháu là học sinh yêu văn. Cháu thuộc cả thơ bác nữa đấy ạ!
Nghe Thoa nói thế, bác Bính gật đầu,
cười vui. Những lần sang chợ Chủ trở về,
đò ra giữa dòng sông, bác bỏ mũ, xắn tay áo, cẩn thận vốc nước sông Châu rửa mặt.
Nhà thơ ngồi ngay ngắn trên sạp đò khoan khoái ngắm ánh trời buông tha thướt đôi
bờ sông Châu trong mát. Lúc dựng sào, đò ngang
cập bến, lần nào Thoa cũng nhanh
nhẹn chuyển xe đạp lên bờ giúp bác. Nhà thơ rất hài lòng nói “Cảm ơn cháu”,
rồi ông giong xe về cơ quan sơ tán. Thoa buồn lắm
khi bác Bính làm thơ đột ngột ra đi. Cả gia đình Thoa thương tiếc bác Bính. Vắng bóng
thi nhân từ độ ấy...Mênh mang buồn.
Năm mười tám tuổi, Trần Thị Thoa nộp
đơn vào trường
Trung cấp Công nghiệp
của tỉnh. Tốt nghiệp, cô về xí nghiệp Than Đồi Hoa, Hoà Bình làm kế toán. Cô lập
gia đình năm 1971 với chàng trai ngành địa
chất. Quê anh ở Bối Cầu, Bình Lục, phía
bên kia dòng sông Châu. Mối lương duyên của hai người được gia đình đôi bên vun
đắp, thật tốt đẹp. Họ sức rộng vai dài, yêu
nghề, yêu đời, chăm chỉ công tác. Họ có các con trai, con gái, nuôi dạy các con
nên người hiếu thảo, công tác giỏi giang, thành đạt.
Chiều lưu luyến
nắng. Chúng tôi làm thủ tục chia tay Cô
lái đò sông Châu bên bến sông quê tình nghĩa. Trước khi về Nam Định, chúng
tôi cùng bước xuống bến đò. Sông Châu sóng xanh óng ánh dáng chiều. Bờ bên kia
sương nhẹ, tre pheo xoà bóng. Con đò
vắng khách cắm sào đợi ai. Cô Thoa tươi cười bên mí nước. Sông
Châu bây giờ cây cầu bê tông đã nối đôi
bờ, tiếng còi xe văng vẳng, loang xa. Bạn
tôi mở ống kính, ghi lại quang cảnh nhiều
cảm xúc này.
Ngày mai, cô
Thoa cũng lên đường. Tôi ngồi sau lưng bạn, nhẩm thầm câu thơ trong bài “Cô lái đò”, nhà thơ
Nguyễn Bính viết từ những năm Ba mươi thế kỷ
trước:
“Vắng bóng cô em từ dạo ấy/ Để buồn
cho những khách sang sông”.