Tản văn
ĐỖ PHÚ NHUẬN
Từ ngày về làm rể ở làng Lương
tôi đã được ăn nhiều cái Tết Nguyên đán ở đây, nhưng đáng nhớ nhất là cái tết
đầu tiên khi tôi chính thức trở thành người con của làng.
Tết Nguyên đán ở quê vợ thật là
vui, đi đâu cũng được các chú các dì chèo kéo, mời ăn cho được một miếng bánh
chưng xanh thơm phức hoặc một chiếc kẹo lạc giòn tan, có người còn dúi vào tay
vợ tôi đồng tiền mừng tuổi cùng đôi lời chúc phúc.
Hôm sau trước lúc vợ chồng tôi
tạm biệt mọi người để về cơ quan, thì bà mẹ vợ cứ dặn đi dặn lại: “ Dù bận dù
mải đến đâu, sáng ngày 30 tháng Giêng, các con cũng phải về để ăn TẾT CÙNG, bởi
cái Tết ấy diễn ra trong đúng có một ngày mà chỉ làng Lương mình mới có”. Đem
chuyện ấy hỏi nhỏ vợ, thì em cũng chỉ ậm à ậm ừ không ra biết cũng không ra
không, mà không chỉ vợ tôi, nhiều người trong làng cũng chỉ biết đại khái rằng
cái Tết ấy từ xa xưa làng Lương mình đã có.
Đúng hẹn chúng tôi bắt xe về,
chủ yếu để “xem” TẾT CÙNG ấy ra sao mà bà mẹ vợ tôi dặn dò kỹ vậy!
* * *
Chuyện kể rằng vào cữ cuối tháng
Chạp năm ấy - chỉ cách Tết Kỷ Dậu (1789) có dăm ngày - một cánh quân của Hoàng
đế Quang Trung đuổi giặc qua đây xin nghỉ lại ít ngày cho lại sức. Các bô lão
trong làng thấu đáo xét soi, y theo lời thỉnh. Các cụ còn khuyên nhủ mọi người:
“Ai có khoai giúp khoai, ai có gạo giúp gạo, rau cần, rau cải, con cá, con cua, cổng tre mở
rộng ra, ổ rơm thêm rơm mới”
Nhưng ngặt một nỗi làng Lương đang kỳ đông tang thời vụ hối hả cấy chiêm,
mà cái Tết Nguyên đán cũng đã cận kề, nên không khỏi có người phân
vân do dự. Các cụ lại vào từng nhà khuyên
nhủ: “Giúp quân ta cũng
chính giúp mình, giặc nhà Thanh đây đó rập rình, làm sao yên ổn” Mọi
người hiểu ra cũng bớt phần
lưỡng lự. Đêm khuya trong các ngõ đã nghe tiếng giã gạo
thậm thình, sáng ra có kẻ vội vào rừng sâu cắt lá dong xanh, khói lên la đà, quấn
quýt mấy chòi bếp rạ, mùi rượu thơm lừng chả giấu nổi ai.
Lại
nói về đám lính của triều đình rặt một lũ trai, nhanh chóng tản về các ngõ,
nô đùa cười nói cứ ý như là
về đến nhà mình, rồi nhanh chân chạy ra giếng đất đầu làng tắm
táp cho người, cho ngựa. Mấy cụ bà trông thấy xuýt xoa: “ Đã
lập xuân đâu mà không biết rét” bọn con gái thình lình tắt qua giếng nước, chân bước dồn mà mắt liếc
ngang, rồi đấm lưng nhau cười rúc rích.
Mấy
chú lính tơ chuốt lại mũi tên căng
đôi cánh nỏ, rủ nhau luồn rừng săn thỏ núi, lợn lòi... làng Lương rậm rịch cứ
như đã là Tết đến. Mà Tết sớm đã đến với làng Lương thật, họ đụng lợn khao quân, gói bánh nấu cơm, nhà khá giả góp mươi đấu
tẻ, nhà khó nghèo con cá mớ rau... ai cũng vui vì biết sức mình trong đó. Đêm
hanh hao cả gió, đuốc nứa cháy phừng phừng xóm dưới ngõ trên. Cả làng Lương bát
rượu trắng uống chung, mai quân đã đi,
biết ngày nào gặp lại!
Lối vào làng Lương là nhà anh Dậu, vợ
siêng năng chạy chợ, sớm hôm cám bã rau bèo, chồng lặn mò đồng cạn đồng sâu cây
lúa, cây khoai, con tôm, con tép. Tháng tám ngày ba, lăn rừng săn thú bẫy chim. Nhà
có một mụn con thơ, tóc để trái đào trông
đẹp tựa tranh. Ba trái tim vàng một mái nhà
gianh, kẻ biếng lười cũng phát ghen phát tỵ. Sáng
sau sắp đến giờ quân đi, Dậu giục vợ gói cho mo cơm nếp, đong đầy một ruột tượng gạo, rồi hối hả xin theo. Thấy Dậu thật thà lại quen việc nhà nông,
người lãnh đội chẳng chút đắn đo, chấp
thuận. Lính mới tò te đứng cuối hàng
quân, ai cũng trầm trồ: tuy ngượng nghịu nhưng mà chững chạc. Chỉ thương vợ Dậu đỏ hoe con mắt, nuốt lấy từng lời chồng dặn
với lại sau: “Ra Giêng tan giặc tôi về”.
Mọi người nhìn theo hút bóng đoàn
binh, mưa giăng mờ ngõ nhỏ, con đường
đất vắng ngắt vắng ngơ, chỉ lặng phắc dấu chân người, chân ngựa.
Dân làng Lương năm đó cấy hái
cày bừa vẫn nhớ người con. Mùa đông sắp qua, rét không lo, đói không lo, chỉ lo
bước chân quân ta thần tốc. Ngóng tin từ Thanh - Nghệ dội về, từ Tam Điệp vọng
sang, xứ Đông xứ Đoài bước chân có chậm?
Mãi chiều mùng 5 thình lình phu
trạm, truyền khẩu một tin đánh động cả làng: Hôm kia quân ta vượt sông Gián
Khẩu, hôm qua Khương Thượng, Ngọc Hồi, sáng nay Đống Đa rầm rập. Quân Thanh
chết như ngả rạ, chất lên thành đống thành gò.
Tết Nguyên đán ấy qua lâu, cây
đào già trước sân rậm lá, che cho chùm quả non tươi, vầng trăng nguyên
tiêu vằng vặc ngang trời đang chuyển sang hao mòn
khuyết lẹm, như trái chuối chín vắt ngang trời mà chẳng thấy Dậu đâu. Chiều
chiều thấp thỏm ngõ sâu vợ con Dậu ngóng tin chồng mà chẳng thấy. Ngay cả mấy
bà váy đụp áo nâu, chẳng dám nhỏ to điều này điều nọ, sợ xúi quẩy cho kẻ đi xa,
lại không an lòng mẹ con nhà nó.
Mấy lão làng nói cứng: “Quân lệnh như sơn, chớ có nhiều lời” rồi
lấp lửng: “Hãy yên lòng chờ đợi”.
Thế mà thật bỗng đùng một cái,
sáng 29 tháng Giêng Dậu đường đột trở về, vẫn bộ quần áo nâu sờn cũ. Tin Dậu về
như rơm khô bén lửa, cháy phừng phừng xóm dưới làng trên. Mấy đứa gái cắt cỏ
ngoài đồng vội vã băng sông, đến nỗi quên cả liềm ngoài bãi,có mụ xồn xồn xóm
trong, ôm đứa con thơ hớt hơ hớt hải, làm bầu sữa căng ướt cả ra ngoài áo. Ông
già mù nghễnh ngãng nhà bên cũng lần tường tìm tới, chiếc điếu cày nắm chặt
trên tay mấy lần quên hút, lửa bén cả vào râu giật mình thấy khét...Nhưng vợ
Dậu mới là người ngộ nhất, chẳng biết ngượng là gì, xán bên chồng chẳng nói
năng chi cứ sờ sờ nắn nắn, bóp tay bóp cẳng, vạch lưng vạch áo ra xem, sợ mũi
tên hòn đạn có mắt như mù mà chạm phải, nhưng tịnh như không, lúc này mụ mới
cười cười nói nói, người ngồi đây đích thực là chồng.
Mọi người tíu tít hỏi thăm: hơn
tháng qua Dậu làm gì, ở đâu, có giết được giặc Thanh trên đường đuổi giặc?
Bao đợi chờ ẩn trong từng đôi
mắt, không lo lắng sao khi làng Lương lần đầu có người ra trận, không đợi chờ
sao khi làng Lương lần đầu vắng một suất đinh?
Một lúc rõ lâu Dậu mới chịu hé
răng: “ Việc quân thì nhiều kể sao cho
hết, kẻ ra trận tiền người mài kiếm, rèn đao, có người được giao chăn nguyên
đàn ngựa. Vốn quen việc đồng điền tôi lo cơm nắm muối vừng đúng bữa. Nhớ lời
người xưa thực túc binh cường, tôi đâu quản nhọ nhem củi lửa”!
Nhưng nét buồn không biết giấu
vào đâu, Dậu chợt nói một câu không thể đau hơn được nữa: “ Trong một đêm đuổi đánh giặc Thanh, lúc thu quân về thúng cơm thừa
ra mấy nắm. Nước mắt nghĩa quân bìa rừng ướt sũng, người đau cắn răng, ngựa
buồn ế cỏ”.
Mấy cụ ông ngồi nghe cúi đầu
lặng lẽ, bát nước chè xanh chợt nguội nửa chừng, mấy cụ bà vai lắc đầu rung, úp
mặt vào tay khóc không thành tiếng: “ Con
cái nhà ai, quê hương bản quán, vong linh liệu có nhớ đường, xin Phật Tổ từ bi
mở rộng lòng thương đón họ về đất Phật.” Chỉ bọn trẻ con là chưa biết buồn
thương gì hết, mừng vui khi chú Dậu làng ta lại dạy chúng thả diều đánh đáo.
Bỗng đứa sún răng nói một câu tếu táo: “Chú
Dậu làng ta có giết được giặc đâu mà cũng gọi là đi lính ”!
* * *
Mấy vị lão làng chợt tỉnh, to
nhỏ cùng nhau bàn chuyện ngày mai: “Dậu
là người làng ta lại dám tòng quân, hơn tháng chưa lâu, một ngày cũng là xung
lính. Không nên tướng nên quan cũng đủ làm gương cho lũ trai làng. Tết qua đã
lâu phải ăn lại Tết cho Dậu vui cùng, dù cuối tháng Giêng. Không thịt mỡ dưa
hành phải có bánh chưng, có bánh chưng xanh mới ra vị Tết”. Mọi người đưa
mắt hỏi nhau biết tìm đâu ra gạo nếp? May quá nhà có kỵ tháng sau, nhà sắp cưới
con cũng bớt ra năm ba đấu nếp. Bàn gần bàn xa phải xay thêm gạo tẻ, bánh vẫn
thơm lại đỡ dính tay. Lũ trẻ con tranh phần tìm lá chuối lá dong, bọn con gái
nhanh mắt nhanh chân, cắp rổ ra đồng hái cây rau khúc. Lá khúc ngào với bột gạo
thơm, nhân đỗ nhân hành, gói lá chuối xanh, buộc sợi rơm vàng, chặt lèn các
chõ.
Thế rồi trưa 30 tháng Giêng hoa
gạo bung đầu ngõ, làng Lương lại có một ngày xuân muộn vẫn là xuân. Bánh khúc
dỡ ra thơm kín góc sân, chọn những chiếc bánh ngon xếp đầy trên 3 mâm gỗ, mấy
lão làng áo lương guốc gộc, chai rượu nếp hoa vàng nút lá chuối khô, cùng lũ
trai tơ trịnh trọng đội tới nhà anh Dậu. Cảm kích trước tấm lòng bà con trong
làng ngoài bãi, Dậu sai người nhà cỗ bày chiếu trải, cùng mọi người nâng chén
rượu thơm. Đúng là Tết muộn Tết cùng mà vui hơn Tết, mãi cuối giờ mùi cuộc rượu
mới tan.
***
Từ bấy đến nay trải đã mấy trăm
năm, làng Lương có nhiều thay đổi: cái giếng đất ngày xưa vo gạo, nay đá xếp
tròn nước ngọt trong veo, ai đã đặt tên là giếng Ngọc. Con đường xưa cỏ lút bàn
chân, nay rải nhựa viền hai hàng hoa đỏ, bọn trẻ con đạp xe gọi đây là con
đường phi mã. Tập tục ăn TẾT CÙNG (hay cùng ăn tết) mãi mãi vẫn còn, vào ngày
đó nhà nào cũng làm chõ bánh, nhớ về trai làng một thời ra trận, làm nên chiến
thắng Đống Đa.
Bánh khúc làng Lương gắn với
truyền thuyết xa xưa, hay truyền thuyết xưa giữ hồn cho bánh. Chiếc bánh nhỏ
xinh đã vài trăm năm tuổi, mãi mãi thơm cùng nét đẹp làng quê.
-----------------------------
* Theo cuốn: “Văn hóa làng trên đất Thiên
Bản” của nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Bùi Văn Tam (NXB Dân Trí năm 2010) thì tập tục ăn TẾT CÙNG (còn gọi là tết mùng cùng) vào ngày 30 tháng Giêng hàng năm vẫn được nhiều vùng dân cư ở huyện Vụ
Bản (Nam Định) gìn giữ tới tận ngày nay.