Phạm Khải Hoàn
Chèo là loại hình nghệ thuật độc đáo của
dân tộc, được ra đời từ hàng ngàn năm nay và luôn phát triển chủ yếu ở vùng đồng
bằng Bắc Bộ.
Ngày xưa, các cụ chia ra 4 chiếng
chèo. Đó là, Chèo Bắc gồm: Bắc Ninh, Bắc Giang, Vĩnh Phúc; Chèo Đông gồm: Hưng
Yên, Hải Dương; Chèo Đoài gồm: Hà Đông, Sơn Tây ( nay là Hà Nội). Chèo Nam gồm: Hà Nam,
Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Mỗi chiếng
chèo đều mang màu sắc địa phương, do các nghệ nhân cùng nhân dân không ngừng
sáng tạo và có thế mạnh riêng của mình để bảo tồn và phát triển. Do sự lan tỏa
về dân cư, mà nghệ thuật chèo có mặt ở nhiều nơi trên đất Việt. Ngay cả miền
núi Việt Bắc, Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên và cả ở Nam Bộ cũng có rất nhiều
người biết hát và diễn chèo. Song, xưa nay mọi người đều ấn tượng chiếng chèo Nam, mà Nam Định là một trong những cái nôi
của đất chèo.
Bàn về cái nôi của đất cheò thì dài
dòng lắm, mà bài viết này, chỉ đề cập đến làng chèo xưa và nay ở Nam Định.
Chèo- Có người hiểu là “Chầu” do nói
chệch đi, chèo là trào lộng, chèo là chèo thuyền, hội chèo là sinh hoạt hội hè
vui vẻ, rồi chèo tức là chào đón khách…Nhưng dù hiểu theo cách nào, thì chèo vẫn
là loại hình nghệ thuật dân tộc đặc sắc , sinh ra từ nhu cầu của người lao động.
Cùng với thời gian, thích ứng với từng thời kì phát triển của xã hội, mà chèo
được mang tên: “Chiếu chèo” “ Gánh chèo”, “ Phường chèo”, “ Hội chèo”, mà các
nghệ nhân là những người trong một làng. Đội chèo là đã có sự phát triển về tổ
chức. diễn viên có thể ở nhiều làng. Đoàn chèo là tổ chức phát triển ở mức cao
hơn, thường dùng để chỉ các đoàn chèo chuyên nghiệp. Nhà hát Chèo, là đơn vị
nghệ thuật có quy mô hiện đại về tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, trang thiết
bị, cơ sở vật chất, đặc biệt có nhiều chương trình nghệ thuật tương sứng với
nhà hát, vươn lên ngang tầm nhu cầu xã hội.
Cách đây hàng trăm năm, cùng với các làn
điệu dân ca đồng bằng Bắc Bộ như: Trống quân, Cò lả, hát văn, hát xẩm, ca
trù…nghệ thuật chèo ở Nam
Định đã hình thành và phát triển khá sớm, chiếm được ưu thế trong quần chúng.
Nó là hơi thở của cuộc sống đối với người nông dân lao động một nắng hai sương.
Sau những buổi lao động mệt nhọc, làm ra hạt thóc, củ khoai, thì người nông dân
ở vùng đồng bằng châu thổ Sông Hồng, thường hoạt động văn nghệ để mua vui, lấy
lại sự cân bằng sinh thái. Đồng thời dùng làn điệu, ngôn ngữ, hình tượng nhân vật
được khoa trương, cường điệu bằng lối diễn chèo để phản ánh cuộc sống hiện tại
nhằm giáo dục thói hư, tật xấu trong xã hội và là vũ khí đấu tranh chống lại cường
hào, ác bá thực dân phong kiến. Vì thế chèo, được nhân dân lao động hưởng ứng,
bảo vệ dần dần trở thành môn nghệ thuật độc đáo với hơn 100 làn điệu và có sức
lan tỏa rộng khắp trong tỉnh.
Nam Định, vùng đất học, đất văn, có nhiều
di tích lịch sử, danh thắng, với nhiều lễ hội cấp quốc gia, cấp vùng, cấp huyện
và làng xã, mà các hoạt động của hội thường gắn liền với văn hóa dân gian,
trong đó có nghệ thuật chèo. Chính vì thế mà huyện nào cũng có nhiều làng chèo
gốc, ngày nay còn lưu giữ được kỉ vật.
Về với vùng đất chèo Ý Yên, có phường
chèo An Lại Hạ- xã Yên Nhân, lúc đầu là gánh hát nhỏ, sau phát triển thành phường,
thành hội. Họ suy tôn ông “Trùm” (Người tài năng), là linh hồn của phường để
lãnh đạo, tổ chức và dựng các tiết mục.
Đến với phường chèo An Lại Hạ, ta còn chứng kiến 2 tráp gỗ đựng quần áo, một số
trang phục để gánh đi biểu diễn. Cái ao trước cửa đình xưa kia là nơi phường
chèo bắc rạp biểu diễn trong ngày hội làng, sau mỗi vụ thu hoạch lúa, rằm trung
thu và tết nguyên đán. Nhiều nhà có tới 4 đời theo gánh hát, như gia đình cụ Trịnh
Văn Khái là đời thứ nhất, cụ Trịnh Văn Biểng là đời thứ 2. Tác giả Thanh Lương
là đời thứ 3, cùng con cháu vẫn đam mê biểu diễn nghệ thuật chèo cho đến năm
2016 ông mất, để lại nhiều kịch bản chèo ngắn, dài được đội chèo không chuyên
và đoàn chèo chuyên nghiệp dàn dựng. Ở đây có gia đình cụ Dương Văn Hàm, 3 đời
tham gia diễn chèo và có tới 12 người con, cháu hoạt động sân khấu chèo, trong
đó 6 người là diễn viên, nhạc công ở đoàn chèo chuyên nghiệp, có 2 nghệ sĩ được
nhà nước phong tặng nghệ sĩ ưu tú. Ở phường chèo Yên Phong có gia đình cụ Trần
Văn Đa cũng đi theo nghiệp chèo tới 60 năm, để hôm nay có Quang Lộc, Đăng Khoa được
nhà nước phong tặng nghệ sĩ ưu tú, nghệ nhân ưu tú về chèo truyền thống.
Cùng với làng chèo Yên Phong, Yên Nhân,
huyện Ý Yên được suy tôn là đất chèo của tỉnh Nam Định với các làng chèo Yên Trị,
Yên Chính, Yên Thọ, Yên Cường…có vài chục diễn viên tiêu biểu như: Minh Chuân,
Thanh Lịch, Minh Lý, Thanh Hương, Hồng Ngoan, Văn Diện, Đức Huy…và nhiều diễn
viên tài năng khác.
Rồi huyện Mỹ Lộc, có làng chèo Đặng, là chất men hồn quê, tạo lên tứ thơ
mộc mạc, bức tranh chấm phá ngày xuân ở quê hương Nguyễn Bính:
Bữa ấy
mưa xuân phơi phới bay
Hoa xoan lớp lớp
rụng vơi đầy
Hội chèo làng Đặng đi ngang ngõ
Mẹ bảo “ Thôn
Đoài hát tối nay”
Hồi ấy, hội chèo làng Đặng có đủ tiết
mục diễn tới 3 đêm với hơn 20 nghệ nhân, có dàn nhạc cùng với quần áo, trang phục,
đạo cụ biểu diễn, nổi tiếng cả vùng. Gần chèo làng Đặng là gánh chèo Quang Sán
xã Mỹ Hà, do cụ Trần Đình Báo đàn hát rất hay đứng ra quy tụ, dạy đàn, dạy hát
múa…rồi trực tiếp đạo diễn. Cùng với cụ có kép Vận, kép Cát, kép Lãng…là diễn
viên, nhạc công tài năng. Sau hòa bình lặp lại (1954), mỹ Hà có tới 7 đội chèo,
riêng làng Quan Sán có 2 đội. Gần 60 năm hoạt động , các đội chèo Mỹ Hà đã dựng
nhiều vở ngắn, 7 vở dài và thường xuyên đi diễn ở các xã lân cận.
Huyện Mỹ Lộc còn có làng chèo
Nhân Nhuế xã Mỹ Thuận cũng nhiều người hát hay, diễn giỏi và đàn ngọt nổi tiếng
một thời như: Ông Nguyễn Văn Doanh, ông Vũ Trí, bà Thanh Hưng, Thanh Hiệp. Ông
Văn Chuyên vừa là kép chính, lại đánh trống rất tài cho đến khi qua đời.
Về với đất Thiên Bản Lục Kì, ta nhớ
ngay đến trạng nguyên Lương Thế Vinh ( 1441-1496) là quan ở viện Hàn Lâm, người đam mê đàn sáo
và hát chèo. Ông đã viết tác phẩm: “Hí Phường Phả Lục” về nghệ thuật chèo. Rồi
đào chính của phường chèo Thông Khê ( Đồng Đội) là Trần Thị Ngọc Đài vừa tài, vừa
sắc được Trịnh Tráng đưa về phủ chúa và trở thành Trịnh Thái Phi…Thời gian trôi
đi, làng chèo ở Vụ Bản vẫn như mạnh nước ngầm, không bao giờ tắt. Ta gặp hàng
loạt làng chèo gốc, mà nổi trội nhất là làng chèo Hào Kiệt ( xã Liên Minh), quê
hương Song Hào, Văn Cao, Văn Ký. Làng chèo nơi đây, gắn liền với các nghệ nhân
nổi tiếng như Kép Nhân, kép Me, kép Bường và nhạc công Hoàng Đình Cao. Thời kỳ
phong kiến, phường chèo Hào Kiệt đã nổi tiếng cả vùng. Trong kháng chiến chống
thực dân Pháp, phường chèo này hầu hết đều là dân quân du kích chiến đấu ngoan
cường, tạo lên Liên Minh, xã anh hùng đầu tiên trong thời kì chống Pháp.
Về với miền chân sóng, các làng chèo
phía Nam của tỉnh Nam Định cũng
không kém các làng chèo phía bắc. Như huyện Giao Thủy có làng chèo Hoành Nhị xã
Giao Hà, do cụ Phùng Hữu Ích khởi xướng cùng với kép Khương, kép Trúc, kép
Kiên, kép Khu và kép Toại. Thế mạnh của làng chèo Hoành Nhị là các diễn viên đều
biết chơi nhạc, nên nhịp phách ( nội, ngoại ), luyến láy rất chắc và hát hay.
Nhiều kép đóng giả đào mà diễn rất có duyên đầy hấp dẫn, được khán giả thán phục.
Rồi làng chèo Giao Thanh, cũng chính là nơi sinh ra nghệ sĩ nhân dân Bùi Trọng
Đang – người thầy về sân khấu chèo. Nối tiếp truyền thống ấy, Giao Thủy cũng được
suy tôn là đất chèo với những giọng hát chèo hay của Xuân Thịnh, Thanh Bảy,
Phùng Thị Nhung, Phùng Thị Hà và Thanh Soan…
Cũng như Giao Thủy, các làng chèo ở huyện
Xuân Trường, đất học, đất văn, nơi sinh
cố tổng bí thư Trường Chinh và nhiều nhà khoa bảng. Các làng chèo ở đây, được
hình thành từ gánh hát của cố Nguyễn Văn Can, trùm Đặng Văn Tuệ, dần dần phát
triển thành các phường chèo và lan tỏa ở khắp trong huyện. Đã gần 100 năm mà
người dân ở các làng chèo vẫn nhớ người đạo diễn tài danh Phạm Thanh Kỳ, diễn
viên Nguyễn Đình Tịnh, Nguyễn Văn Mậu, Nguyễn Thị Ty và đặc biệt nghệ nhân Vũ
Văn Khoan vừa hát hay vừa đàn ngọt, mà nhiều nhạc sĩ, nhiều nhà nghiên cứu văn
hóa dân gian phải ngạc nhiên, thán phục lối hát dân gian của cụ. Xuân Trường
cũng là nơi sinh ra nghệ sĩ nhân dân Kim Liên, người vinh dự bốn lần được gặp Bác
Hồ là nhờ tài năng diễn chèo, ngâm thơ và hát văn nổi tiếng.
Cùng khu vực giàu tiềm năng văn hóa
biển là huyện Hải Hậu, nơi có bề dày về truyền thống văn hóa, đã 40 năm (
1978-2018) được bộ Văn hóa thông tin và du lịch ( VHTT- DL) suy tôn lá cờ đầu
văn hóa cấp huyện trong toàn quốc. Hải Hậu phát triển đồng đều cả văn hóa hiện
đại và dân gian. Bên cạnh những đội ca nhạc, đội kịch, nhạc kèn mạnh, thì các
làng chèo, dàn nhạc dân tộc cũng không thua kém. Đó chính là làng chèo Phú Vân Nam xã Hải Châu
đã tồn tại hàng trăm năm. Lúc đầu chỉ là phường bát âm, được các cụ Nguyễn Văn
Xiêm, Trần Kim Chi, Đinh Văn Tính, Nguyễn Bích Thảo tổ chức thành phường chèo.
Chính nơi đây đã tôi luyện nghệ sĩ Đoàn Bá, trở thành đạo diễn chuyên nghiệp.
Ông đã dựng nhiều vở cho đoàn chèo Nam Định. Rồi ông Đinh Hoạch Biên,
bà Tuyết Mai đã sáng tác nhiều hoạt cảnh cho làng chèo biểu diễn, mà đến nay vẫn
còn sống trong lòng khán giả.
Thật muôn màu muôn vẻ, về huyện Nam Trực,
ngoài phường chèo Điền Xá, Nam Mỹ thì ta lại thấy phường chèo
gắn kết với phường múa rối nước như ở làng Rạch xã Hồng Quang, làng nhất xã Nam
Giang. Làn điệu chèo cùng dàn nhạc dan tộc đã hòa quyện tạo lên hiệu quả của
múa rối nước để môn nghệ thuật độc đáo này, sống mãi với thời gian. Cứ thế, nhiều
đội chèo mới, ngày càng phát triển như đội chèo Nam Thái có hơn 30 diễn viên nhạc
công.
Về Nghĩa Hưng, Trực Ninh cũng vậy, các
đội chèo đều là lực lượng chủ yếu hoạt động văn hóa, văn nghệ ở nông thôn để
sân khấu chèo khẳng định vị trí của nghệ thuật truyền thống trong xu thế hội nhập,
kinh tế thị trường.
Như vậy ở Nam Định huyện nào cũng có
nhiều làng chèo gốc, mà thời kì đầu thường diễn các vở chèo cổ như: Lưu Bình
Dương Lễ, Phạm Tải Ngọc Hoa, Trương Viên, Lương Sơn Bá – Chúc Anh Đài, Tuần Ty
Đào Huế, Kim Nham…
Khi tổ đổi công và hợp tác xã nông
nghiệp hình thành, thì các làng chèo gốc lại thi nhau biểu diễn tuyên truyền
cho nhiệm vụ mới ở nông thôn với các vở: Nắm cỏ trâu, Chiếc đòn gánh, Cánh đầm
sen, Tiếng trống sang canh, Bụi tre gai, Cót thóc vơi…
Từ 1964, đế quốc Mỹ leo thang bắn phá
miền Bắc, các làng chèo lại ra sức hòa mình vào công cuộc đánh Mỹ với các vở:
Đường về trận địa, Sao đổi ngôi, Con tiếp bước cha, Sông Hồng cuộn sóng, Anh
lái xe và cô chống lầy, Bến sông quê, Chị Tâm bến Cốc…
Trong những năm đất nước đổi mới, các
làng chèo đã trở thành những đội chèo mạnh, sáng tác, biểu diễn nhiều vở phản
ánh sự phát triển của thời đại, góp phần xây dựng nông thôn mới, với tinh thần
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Các vở: Đường đi đôi ngả, Kẻ tiểu nhân,
Ông Hám, Tình mẹ, Đêm tuần tra, Đất quê mình, Chuyện nhà nông, Đất chuyển và rất
nhiều vở khác, chiếm được tình cảm của bà con nông dân trong và ngoài tỉnh. Các
thế hệ diễn chèo cứ nối tiếp nhau từ đời này sang đời khác. Nhiều diễn viên trở
thành nghệ sĩ nhân dân, nghệ sĩ ưu tú và nghệ nhân ưu tú, lưu giữ cả kho báu
làn điệu và thủ pháp diễn chèo, đang dày công truyền nghề cho con cháu của mình,
để làng quê nông thôn mới khang trang, sạch đẹp, không vắng tiếng hát chèo, góp
phần tạo lên không khí vui tươi phấn khởi, thúc đẩy nền kinh tế địa phương ngày
càng phát triển.
Hiện nay, Nam Định hầu như các xã các thôn làng đều có nhà văn hóa, chính
là nơi hoạt động của các đội văn nghệ, trong đó có hơn 100 đội chèo đã góp phần
đẩy nhanh tốc độ xã hội hóa các hoạt động văn hóa, văn nghệ để Nam Định cùng cả
nước vững bước xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.